CỦNG CỐ SỰ HIỆP THÔNG TRONG GIA ĐÌNH - PHẦN 1/6
“Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta” (Ga 17,11).
® ¬ ®
I. DẪN NHẬP: HIỆP THÔNG TRONG HỘI THÁNH
Gia đình là một cộng đồng các ngôi vị được thiết lập và sinh động do tình yêu và được sinh động cũng do tình yêu. Bổn phận đầu tiên của gia đình là trung thành sống thực tại của sự hiệp thông giữa các ngôi vị qua đời sống yêu thương nhau. "Con người không thể sống mà không có tình yêu". [1]
1. Sự hiệp thông trong Hội Thánh
Do ân sủng Đức Kitô ban tặng, sự hiệp thông giữa đôi bạn được mời gọi không ngừng lớn lên qua việc trung thành mỗi ngày với lời cam kết trao hiến trọn vẹn cho nhau. Với thể xác, tính tình, con tim, trí tuệ, ý chí và linh hồn, sự hiệp thông vợ chồng được nuôi dưỡng nhờ ước muốn chia sẻ với nhau toàn thể dự phóng cuộc đời của họ, chia sẻ với nhau điều họ có và điều họ là: "Sự nên một thân mật, nghĩa là việc hai người trao hiến cho nhau, cũng như lợi ích của con cái, đòi hỏi đôi phối ngẫu phải hoàn toàn chung thủy và đòi buộc nơi họ sự duy nhất bất khả phân ly" [2]; "Điều Thiên Chúa đã phối hợp thì người ta không được phân ly" [3]. Sự hiệp thông vợ chồng được mở rộng đến họ hàng ruột thịt nhờ sức mạnh tình yêu trong cộng đồng gia đình [4]. Sự hiệp thông tự nhiên và nhân bản được được gia đình Kitô giáo bày tỏ và thể hiện một cách đặc biệt sự hiệp thông trong Hội Thánh. Vì lẽ đó, gia đình Kitô giáo có thể và phải được gọi là một "Hội Thánh tại gia - Ecclesia domestica" [5]. Sự hiệp thông giữa các ngôi vị trong gia đình được thể hiện qua việc chăm sóc và tình yêu dành cho các em nhỏ, những người đau yếu, những người già cả, qua những việc phục vụ lẫn nhau trong đời sống hằng ngày, qua việc chia sẻ của cải, chia sẻ những niềm vui và nổi khổ, việc khiêm nhường lãnh nhận và quảng đại trao ban, việc kính trọng và vâng lời cha mẹ, dùng quyền bính để phục vụ, có tinh thần hy sinh cao cả [6], biết thông cảm, bao dung, dịu dàng, đối thoại [7], tha thứ cho nhau [8], và hòa giải với nhau vì “Bạn không thể bắt tay ai đó khi bản thân chìa ra một nắm đấm” (Indira Gandhi) [9]. Trong việc tái lập sự hiệp thông và hợp nhất, Bí tích Giao Hòa [10], cùng nhau cầu nguyện hằng ngày là việc quan trọng nhất và ý nghĩa nhất, đọc Lời Chúa và hiệp thông trong Thánh Thể. Trong Thánh Thể, gia đình khám phá nguồn gốc của việc hiệp thông yêu thương, mẫu gương và mệnh lệnh: “Hy lễ Thánh Thể diễn lại giao ước tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh, vì giao ước ấy đã được ký kết bằng máu của Người trên thập giá. Chính trong hy lễ của Giao ước mới và vĩnh cửu ấy mà các đôi bạn Kitô hữu tìm được nguồn mạch tuôn trào làm cho giao ước hôn nhân của họ được đúc khuôn từ bên trong và được sinh động bền bỉ. Vì là sự diễn lại hy lễ tình yêu của Đức Kitô đối với Hội Thánh, phép Thánh Thể là nguồn mạch đức ái” [11]. “Agape lại trở thành một tên gọi của Bí tích Thánh Thể: Trong Thánh Thể, Tình Yêu (agape) của Thiên Chúa mang tính xác phàm đến với chúng ta, để trong chúng ta và qua chúng ta tiếp tục thực hiện công trình của Ngài” [12]. Từ Đức Kitô qua Hội thánh, hôn nhân và gia đình nhận được ân sủng cần thiết để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa, để sống đời sống hiệp thông [13], để nên thánh [14]. “Nếu chúng ta nói là chúng ta hiệp thông với Người mà lại đi trong bóng tối, thì chúng ta nói dối và không hành động theo sự thật” (1Ga 1,6). [15]
2. Sự hiệp thông giữa các ngôi vị
Là hình ảnh của Thiên Chúa (Imago Dei), con người được tạo dựng để yêu thương: “Thiên Chúa là Tình yêu [16] và nơi Ngài, Ngài sống mầu nhiệm của sự hiệp thông ngôi vị trong tình yêu. Khi tạo dựng nhân tính của người nam và người nữ theo hình ảnh Ngài và liên lỉ bảo toàn cho nhân tính ấy được hiện hữu, Thiên Chúa ghi khắc vào đó ơn gọi cũng như cả khả năng và trách nhiệm tương ứng, mời gọi con người sống yêu thương và hiệp thông [17]. Tình yêu là ơn gọi căn bản và bẩm sinh của mọi người”.[18]
Củng cố sự hiệp thông [19] trong gia đình chính là làm cho tình yêu thêm mạnh mẽ và bền vững, giúp gia đình nên một trong đức tin, đức cậy và đức mến. Đó là bổn phận giúp xây dựng gia đình thành cộng đoàn những ngôi vị, hiệp thông giữa các ngôi vị (communion personarum) theo hình ảnh của Ba Ngôi (Imago Trinitatis). Nguồn mạch và sức mạnh của sự hiệp thông gia đình là tình yêu. Sự hiệp thông với Thiên Chúa và sự hiệp thông với nhau là mục tiêu ưu tiên của gia đình, là điều đáng để hiến dâng đời sống [20]. Trong gia đình, sự hiệp thông vợ chồng tạo nên nền tảng xây dựng sự hiệp thông đối nội và đối ngoại, tạo sự trưởng thành nhân cách cho con cái và tạo sự gắn kết với gia tộc, tạo sự hiệp thông siêu nhiên với Thiên Chúa và Hội thánh. Nhờ cầu nguyện chung, sống Lời Chúa và sống các Bí tích, cách riêng Bí tích Thánh Thể và Bí tích Hòa Giải [21] mà mọi thành viên gia đình nối kết với Chúa Kitô và được qui tụ lại với nhau trong Hội thánh duy nhất của Thiên Chúa. Cách riêng trong Bí tích Hòa Giải, việc xưng tội riêng và xưng tội đầy đủ cùng với việc xá giải giúp các tín hữu được giao hoà với Thiên Chúa và với Hội Thánh. Đức Kitô đích thân nói với từng tội nhân: “Này con, con đã được tha tội rồi” (Mc 2,5). Người nâng họ dậy và dẫn họ về hiệp thông lại với anh em. [22]
Với sự hiện diện của Đức Trinh Nữ Maria và nơi Bí tích Thánh Thể, Chúa Thánh Thần tiếp tục dấu chỉ tiệc cưới tại Cana khi biến đổi từ nước thành rượu, từ thân phận yếu đuối mỏng manh thành người đầy nghị lực, khôn ngoan, và có khả năng yêu thương [23]. Chính nhờ mối hiệp thông siêu nhiên đặc biệt này, gia đình Kitô Giáo bày tỏ và thể hiện một cách đặc biệt sự hiệp thông trong Hội Thánh, được gọi là Hội thánh tại gia [24]. Cốt lõi của sự hiệp thông này không đơn giản chỉ là việc thâu tập những người bình đẳng hay cùng phẩm giá lại mà nó xuất phát từ chính Đức Giêsu Kitô, Đấng đã hiến dâng mạng sống của Người với tư cách là Trưởng Tử, mời gọi và kéo mọi người đến với Chúa Cha [25]. “Tình yêu dâng hiến và hiệp thông, nảy sinh và lớn lên không chỉ trong thân xác và huyết thống, mà còn dẫn xuất từ tình yêu của Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá và phục sinh” [26]. Tham dự thánh lễ hằng ngày vì thế thật quan trọng: “Mỗi lần tham dự Thánh lễ, bạn nghe nói về cái chết, sự phục sinh và lên trời của Chúa, việc tha tội và bạn được rước lễ hằng ngày. Những ai bị tổn thương sẽ tìm được sự chữa lành” (thánh Ambrôsiô). [27]
Củng cố sự hiệp thông trong gia đình là bước nền tảng để mỗi thành viên tiến tới đối thoại và hiệp thông với Thiên Chúa. Hiệp thông với Thiên Chúa là ơn gọi cao quý nhất của phẩm giá con người, ý nghĩa cho sự hiện hữu của con người xuất phát từ tình yêu và sự bảo tồn của Ngài. Con người chỉ sống chân lý cách trọn vẹn khi tự nguyện nhìn nhận tình yêu ấy và phó mình cho Đấng Tạo Hoá của mình. [28]
II. NGUỒN CỘI SỰ HIỆP THÔNG GIA ĐÌNH
Củng cố sự hiệp thông trong gia đình chính là củng cố sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình. Với gia đình Công giáo, việc củng cố sự hiệp thông đó có liên quan đến chính đức tin đặt nơi Thiên Chúa Ba Ngôi, nơi Đức Giêsu Kitô và Hội Thánh của Người. Các Kitô hữu đầu tiên “chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42).
1. Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu. Họ được rửa tội “nhân danh” Cha và Con và Thánh Thần, bởi vì chỉ có một Thiên Chúa, Cha toàn năng, Con duy nhất của Ngài và Thánh Thần: Đó là Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh. Mầu nhiệm này được soi sáng nhờ Con Thiên Chúa nhập thể và Chúa Thánh Thần được sai đến làm cho Kitô hữu được tham dự trước vào sự hiệp thông sung mãn của Thiên Chúa Ba Ngôi. [29]
Sự hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa bắt đầu được nhận biết qua lòng nhân hậu và yêu thương chăm sóc mọi con cái của Ngài. Truyền thống Tây phương xác quyết sự hiệp thông đồng bản thể giữa Chúa Cha và Chúa Con, khi nói rằng Chúa Thánh Thần xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con (ex Patre Filioque procedere). Theo trật tự vĩnh cửu giữa các Ngôi Vị Thiên Chúa trong sự hiệp thông đồng bản thể, Chúa Cha, với tư cách là “nguyên lý không có khởi đầu”, là cội nguồn thứ nhất của Chúa Thánh Thần, nhưng còn với tư cách là Cha của Con duy nhất, thì Chúa Cha là nguyên lý duy nhất cùng với Con của Ngài, từ đó, Chúa Thánh Thần xuất phát như từ một nguyên lý duy nhất. Trong sự hiệp thông đồng bản thế đó, mỗi Ngôi Vị Thiên Chúa thực hiện công trình chung theo cách đặc thù của mình trong Ba Ngôi: “Một Thiên Chúa là Cha, mọi sự đều bởi Ngài; một Chúa Giêsu Kitô, mọi sự đều nhờ Người; và Một Chúa Thánh Thần, mọi sự đều trong Ngài” (CĐ Constantinôpôli II, năm 553). Đặc tính của từng Ngôi Vị Thiên Chúa diễn tả bản tính duy nhất của Ba Ngôi. Toàn bộ đời sống Kitô hữu cũng là sự hiệp thông với mỗi Ngôi Vị Thiên Chúa mà không hề phân biệt Ba Ngôi. Ai tôn vinh Chúa Cha, họ làm điều đó nhờ Chúa Con trong Chúa Thánh Thần; ai bước theo Chúa Kitô, họ làm điều đó bởi vì Chúa Cha lôi kéo người ấy và Chúa Thánh Thần thúc đẩy người ấy. [30]
“Thiên Chúa đã sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27). Thiên Chúa tự thâm sâu trong bản thể là hiệp thông. Thiên Chúa là Tình yêu và là khuôn mẫu lý tưởng của đời sống hiệp thông, Người đã dựng nên con người có nam có nữ, để cả hai cùng là hình ảnh của bản tính Người [31]. Đôi vợ chồng yêu thương và sinh sản đích thực có thể biểu hiện được Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và cứu độ [32]. “Khi con người cá nhân cũng như xã hội đánh mất sự nhạy bén trong việc đón nhận một sự sống mới, thì những hình thức đón nhận khác, hữu ích cho đời sống xã hội cũng bị khô héo” [33]. Tình yêu phong nhiêu giúp họ khám phá và diễn tả mầu nhiệm Thiên Chúa, nền tảng trong cái nhìn Kitô giáo về Mầu nhiệm Thiên Chúa-Ba Ngôi, chiêm ngắm Thiên Chúa như là Cha, Con và Thánh Thần Tình Yêu. Thiên Chúa-Ba Ngôi là mầu nhiệm hiệp thông tình yêu, và gia đình là phản ảnh sống động của mầu nhiệm hiệp thông ấy: “Thiên Chúa trong mầu nhiệm thẳm sâu nhất của Ngài không đơn độc nhưng là một gia đình vì lẽ Thiên Chúa trong Ngài có Cha, có Con và có Yếu tính của gia đình, tức là Tình Yêu. Trong gia đình thần linh, tình yêu này chính là Chúa Thánh Thần” (Thánh Gioan Phaolô II) [34]. Như thế, nguồn cội hiệp thông trong gia đình mang chính yếu tính thần linh, “mầu nhiệm” kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội thánh (Ep 5,21-33) [35]. Gia đình Kitô Giáo là sự hiệp thông giữa các nhân vị, là dấu vết và hình ảnh của sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. [36]
Như vậy, Thánh Kinh và Thánh Truyền mở ra cho chúng ta lối tiếp cận để nhận thức về Thiên Chúa Ba Ngôi, được mạc khải bằng những nét của gia đình [37] : “Nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, hai người trở nên một trong Chúa Kitô. Đó cũng là Chúa Thánh Thần đã nối kết Chúa Cha và Chúa Con, nối kết Hội Thánh với Chúa Cha và Chúa Con. Các đôi vợ chồng là dấu chỉ cho mầu nhiệm tình yêu lớn lao này”. [38]
2. Ngôi Ba là Tình yêu phu thê
“Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống”. Khi định rõ sự tương tự giữa gia đình và Thiên Chúa Ba Ngôi trong hạn từ communio personarum (hiệp thông giữa các ngôi vị), Thánh Gioan Phaolô II đã chỉ rõ mối liên hệ sâu xa giữa Chúa Thánh Thần như là Tình Yêu trao ban sự sống và phụ nữ là người đem sự sống đi vào trần gian [39].
“Ba cách yêu thương trong Ba Ngôi diễn tả ba Ngôi Vị khác biệt và tương liên với nhau: Tình yêu hiền phụ, Tình yêu con thảo, và, tôi (Marc Ouellet) mạnh dạn gọi Ngôi Ba là Tình yêu phu thê, bởi vì đây không chỉ là sự hỗ tương hai chiều nhưng ba chiều. Thánh Thần là ngôi thứ Ba xuất hiện trong hình thái phong nhiêu, tức là như hoa trái của sự hỗ tương giữa hai Ngôi vị kia; điều này làm cho Ngài trở nên một Ngôi vị có yếu tính, một thành viên trong cộng đồng ba Ngôi vị và trong mối tương liên Tình Yêu thần linh… [40] Chúa Thánh Thần như là nguyên mẫu (archetype = mô hình nguyên thủy) của tình yêu phu thê trong Thiên Chúa, bao lâu Ngài là cái “Chúng ta”, khác biệt với tình yêu hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con. Một “Chúng ta” mà trong đó Chúa Cha và Chúa Con yêu nhau trong tình yêu phụ tử phù hợp với đặc tính ngôi vị của các Ngài, nhưng các Ngài cũng yêu nhau với một tình yêu khác, do Ngôi Ba thêm vào (surplus); tình yêu đó làm phong phú cho mối liên hệ của các Ngài và cho phép ta gọi sự sinh sản của các Ngài nơi Ngôi Ba là tình yêu phu thê. Thoạt nhìn chiều kích phu thê không nằm trong mối liên hệ Cha – Con, mà chỉ thuộc về Chúa Thánh Thần và không thể phát xuất từ ai khác ngoài Ngài như là ngôi vị riêng của sự hỗ tương giữa Cha và Con. Ngoài ngôi vị riêng của sự hỗ tương giữa Cha và Con. Ngoài Ngôi vị nhiệm sinh và Ngôi vị được nhiệm sinh, còn có ngôi vị của sự hiệp thông – hỗ tương. Đó là lý do tại sao ta có thể nói rằng Ngôi vị Thánh Thần sản sinh (phát sinh) một thặng dư (surplus) của Tình yêu trong Thiên Chúa, bổ túc cho mối liên hệ Cha – Con bằng một sự sinh sản phong nhiêu mới, nội tại trong họ nhưng không đồng nhất với họ; thặng dư Tình yêu này là đặc tính riêng của Chúa Thánh Thần mà thôi.
Chúa Thánh Thần tích cực hoàn thành mầu nhiệm Nhập Thể như Ngôi vị hiệp thông (Person-communion) hành động để phục vụ Chúa Cha và Chúa Con và theo đuổi sự trung gian phu thê này trong hành trình Nhập Thể của Ngôi Lời trải dài cho đến Mầu nhiệm Phục sinh của Người. Thật kỳ diệu khi chiêm ngưỡng sự trung gian phu thê này của Chúa Thánh Thần, gây nguồn cảm hứng và đồng hành trong sự song đối bất xứng, sự vâng phục của Đức Giêsu với Chúa Cha và sự sẵn sàng đến vô hạn của Đức Maria với Lời Chúa. Sự hiệp thông hoàn hảo này trong sự vâng phục của tình yêu được hoàn tất nơi chân Thập giá, khi Người Con và Người Mẹ cùng chịu đau khổ trong cuộc Khổ nạn vì tình yêu hy lễ cứu chuộc.
Là cái “Chúng ta” được cấu thành bởi sự hỗ tương bất đối xứng nhưng đồng bản thể của Chúa Cha và Chúa Con, Chúa Thánh Thần cho phép ta nhìn thấy chiều kích mẫu tử của mình qua việc tuôn tràn tình yêu phu thê vốn tích cực bồi đắp cho hai Ngôi Vị kia theo cách phụ thuộc. Thiên Chúa Ba Ngôi và Duy Nhất là Tình Yêu quên đi chính mình: Tình Yêu ba ngôi vị xuất phát từ Chúa Cha qua Chúa Con trong Chúa Thánh Thần, một Sự Sống vĩnh cửu trong sự trao đổi vĩnh cửu mà sự tuôn chảy của nó cấu thành mầu nhiệm vô tận của Ngài như là Deus Semper maior – Thiên Chúa luôn lớn hơn. Biến cố Tình Yêu hiền phụ, con thảo và phu thê này, là Ba Ngôi nội tại có thể được nghiệm thấy trong nhiệm cục cứu rỗi mà trong đó các Ngôi Vị Thiên Chúa biểu lộ mầu nhiệm thâm sâu của chính mình trong các tương quan Giao Ước của các Ngài với mỗi người và toàn nhân loại trong Đức Kitô.
Chúa Thánh Thần sở hữu trong chính mình sự sống xuất phát từ Chúa Cha qua Chúa Con. Ngài sở hữu sự sống cách chủ động – thụ động từ hai Ngôi khác và thêm vào sự sống, qua đặc tính ngôi vị của Ngài, một sự sinh sản mang tính phu thê mới và mẫu tử tính của hiệp thông, của sự sống mới, của sự tự do lớn hơn trong Tình Yêu. Chính vì thế mà vai trò hướng nội (ad intra) của Chúa Thánh Thần và hoạt động hướng ngoại (ad extra) của Ngài trong Hội Thánh và trong thế giới mang dấu hiệu hài hòa, đồng nhất trong đa dạng, tự do và nhưng không, tính sinh sản khiến Ngài xứng đáng với tước hiệu Vinh Quang như là Tình Yêu mẫu tử và phu thê.
Người nữ cũng là hình ảnh của Chúa Thánh Thần, Đấng “sống và làm phong phú” chuyển động ba chiều này: Đón nhận, trao ban và sinh sản. Cách yêu thương của Đức Trinh nữ Maria, gắn bó mật thiết với Chúa Thánh Thần (vai trò hiền thê), được biểu lộ trong sự sẵn sàng của Mẹ đối với Chúa Cha (vai trò cô dâu) và trong sự phục vụ vô điều kiện đối với Chúa Con (vai trò người mẹ) mà Chúa Thánh Thần đã tượng thai trong cung lòng trinh khiết của Mẹ cũng như đồng hành trọn hành trình Nhập thể.
Người phụ nữ tham dự vào chiều kích phu thê và mẫu tử của Ngôi Lời và của Chúa Thánh Thần; điều này được biểu lộ qua cách họ yêu thương, đón nhận, đặt mình làm người thứ cấp, nhưng bình đẳng trong phẩm giá và có tính sinh sản gấp đôi”. [41]
3. Tình yêu là năng lực tâm linh
“Tình yêu là năng lực tâm linh bên trong làm linh hoạt và nâng đỡ con người, không thể làm cách khác được, yêu thương nghĩa là trao ban, và món quà đặt người cho và người nhận vào trong một sự hiệp thông mật thiết” [42]. Viên gạch để xây nên một gia đình hạnh phúc là tinh thần gia đình. Tinh thần gia đình giống như nước cần cho cá vậy. Mối dây độc nhất “làm nên” gia đình là tình yêu. Chính tình yêu là sinh tố cho đời sống muôn mặt của con người. Nhờ nó mà người ta có thể xây dựng ngôi nhà của mình trong sự hiệp thông, tạo nên một cái tôi giá trị. Tình yêu là chất keo thiết yếu của mọi sự hiệp thông. [43]
“Thiên Chúa là Tình yêu” (Ga 4,8). Gia đình Công giáo được mời gọi phản ảnh đời sống hiệp thông ngôi vị của Gia đình Thiên Chúa Ba Ngôi [44]. Đặc tính tương quan của Ba ngôi Thiên Chúa thúc bách Ba ngôi ra khỏi chính mình để yêu thương nhau cũng như yêu thương con người trong thế giới. Chính trong tình yêu mà Ba ngôi Thiên Chúa liên kết hiệp nhất với nhau và nối dài tình yêu Ba Ngôi này trong nhiệm cục cứu độ con người. Một cách tương tự, gia đình công giáo được kêu gọi sống tình yêu hiệp thông hướng nội và hướng ngoại của Ba Ngôi Thiên Chúa. Vợ chồng yêu thương nhau, sinh sản và giáo dục con cái cho Hội Thánh và xã hội chính là tham gia vào công trình sáng tạo của Chúa Cha, công trình cứu chuộc của Chúa Con và công việc thánh hóa của Chúa Thánh Thần. Với cấu trúc yêu thương có nguồn gốc từ khuôn mẫu yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi, gia đình chỉ có ý nghĩa khi nó được hình thành từ tình yêu, nỗ lực hiệp thông trong tình yêu và triển nở trong tình yêu. Môi trường yêu thương là môi trương ưu việt của gia đình. Nơi đó mỗi người học được bài học mến Chúa và yêu người, bài học của sự hiệp thông, tôn trọng, nâng đỡ và hy sinh cho nhau theo gương Đức Giêsu. [45]
Được thiết lập do tình yêu và được sinh động cũng do tình yêu, bổn phận đầu tiên của gia đình là trung thành sống thực tại của sự hiệp thông. Sự hiệp thông đòi hỏi sự bổ túc giữa hai phái tính, được nuôi dưỡng bởi dự phóng chung, cùng đáp ứng khát vọng sâu xa trong lòng người [46]. Noi gương Đức Giêsu xóa mình trên thập giá, mối hiệp thông này được củng cố và phát triển nhờ tình tương thân tương ái và nhờ sự nâng đỡ lẫn nhau trong đời sống nhân bản cũng như đời sống đức tin. Nó đòi hỏi đập vỡ cái tôi ích kỷ để xây dựng cái chúng ta yêu thương và hiệp thông. Mối hiệp thông trong gia đình là nhân tố quan trọng góp phần củng cố sự hiệp thông trong gia đình nhân loại và gia đình Thiên Chúa, tức là Hội Thánh. [47]
Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với con người là mối dây liên kết bất khả phân ly, cả hai lệ thuộc vào nhau (1Ga 4,20). Yêu người là một con đường dẫn con người đến gặp gỡ Thiên Chúa. Thiên Chúa tự làm cho mình thành hữu hình qua việc sai Con Một là Đức Giêsu đến thế gian (1Ga 4,9). Việc nhận biết Thiên Chúa hằng sống là con đường đi đến tình yêu. Lịch sử tình yêu giữa Thiên Chúa và con người bao hàm sự hiệp thông trong ý chí, tư tưởng và tình cảm sao cho ý muốn của con người luôn trùng khớp với ý muốn của Thiên Chúa. Tình yêu đối với tha nhân là khả thi khi nó được thực hiện trong Thiên Chúa và cùng với Thiên Chúa. Điều này chỉ trở nên khả thể từ cuộc gặp gỡ thâm sâu với Thiên Chúa, một sự gặp gỡ trở thành hiệp thông ý muốn và thâm nhập vào trong tình cảm. Bấy giờ tôi học cách nhìn người khác không phải chỉ bằng con mắt và tình cảm của riêng tôi, nhưng từ nhãn giới của Đức Giêsu Kitô. Bạn của Người là bạn của tôi. Tôi nhìn tha nhân với đôi mắt của Đức Kitô và có thể trao ban cho họ tình yêu mà họ cần. Việc tiếp xúc với Thiên Chúa sẽ khiến tôi nhìn người khác gần gũi và là hình ảnh của Thiên Chúa. Loại bỏ tình yêu với tha nhân qua việc chỉ liên hệ với Thiên Chúa để trở nên “đúng đắn”, "đạo đức" và thuần "tôn giáo" thì đó là mối liên hệ khô héo vì không có tình yêu. Tình yêu với người lân cận dễ dẫn đến cảm nghiệm về tình yêu Thiên Chúa. Thánh Têrêsa thành Calcutta qua việc yêu thương tha nhân đã dẫn đến việc tiếp xúc mật thiết với Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể và ngược lại sự tiếp xúc này trở thành hiện thực và sâu xa trong việc phục vụ tha nhân. Mến Chúa và yêu người không thể tách rời nhau được. Đó chỉ là một giới răn. Tình yêu mang tính thiên linh, vì từ Thiên Chúa mà đến và giúp chúng ta kết hợp với Thiên Chúa, và trong tiến trình kết hợp này, giúp chúng ta trở thành một "Chúng tôi", vượt thắng mọi chia rẽ và làm cho chúng ta nên một, để rồi cuối cùng "Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài" (1Cr 15,28). [48]
“Sự hiệp thông được sinh ra và luôn luôn lớn lên trong và với tình yêu. Yêu thương là trung tâm của đời sống lứa đôi và gia đình, và như thế các đôi bạn và các gia đình là những người xây dựng sự hiệp thông yêu thương làm nên căn nguyên và nền tảng của đời sống xã hội, dù là cộng đoàn dân sự hay cộng đoàn Hội Thánh”. [49]
4. Ơn gọi hôn nhân trong Hội Thánh
Kinh Thánh xác định ơn gọi hôn nhân từ việc Thiên Chúa tạo dựng người nam và người nữ theo hình ảnh và giống như Ngài và kết thúc bằng viễn ảnh về “tiệc cưới Con Chiên” (Kh 19,9). Hôn nhân nằm trong trong trật tự của công trình tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa.
“Cộng đồng thân mật của đời sống và tình yêu hôn nhân, đã được Đấng Tạo Hoá thiết lập và quy định những luật lệ cho nó. Chính Thiên Chúa là tác giả của hôn nhân” (GS 48). Ơn gọi hôn nhân đã được khắc ghi trong chính bản tính của người nam và người nữ, như chính họ phát xuất từ bàn tay Đấng Tạo Hoá. Như vậy sự cao cả của việc kết hợp trong hôn nhân có nguồn gốc thần linh. Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng con người vì tình yêu, cũng đã kêu gọi họ đến tình yêu, đó là ơn gọi nền tảng và bẩm sinh của mọi nhân vị. Thật vậy, con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa, Đấng chính “là Tình Yêu” (1Ga 4,8.16). Vì Thiên Chúa đã dựng họ có nam có nữ, nên tình yêu hỗ tương của họ là một hình ảnh của tình yêu tuyệt đối và bất diệt Thiên Chúa dành để yêu con người. Dưới mắt Đấng Tạo Hóa, tình yêu này là tốt, là rất tốt. Và tình yêu này, được Thiên Chúa chúc phúc, được nhắm đến việc sinh sôi nảy nở (St 1,28). Bằng sự trao hiến bản thân cách trọn vẹn và dành riêng cho nhau, người vợ và người chồng hướng tới sự hiệp thông hữu thể của họ nhằm đạt được sự hoàn thiện bản thân của nhau, để cộng tác với Thiên Chúa trong việc truyền sinh và giáo dục những sinh mệnh mới [50]. Kinh Thánh đã khẳng định rằng, người nam và người nữ được tạo dựng cho nhau (St 2,18), trong bình đẳng với nhau, trợ giúp nhau (St 2,24), hiệp thông với nhau: “Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt” (Mt 19,6). [51]
Hôn nhân là một định chế khôn ngoan của Ðấng Tạo Hóa nhằm thực hiện kế hoạch tình yêu của Người nơi nhân loại. Hơn nữa, hôn nhân Kitô giáo là một bí tích: «Ân sủng của bí tích vừa là một ơn gọi vừa là một lệnh truyền để vợ chồng Kitô giáo giữ lòng chung thuỷ mọi ngày suốt đời, bất chấp mọi khó khăn và thử thách, với lòng vâng phục thánh ý Chúa cách quảng đại: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6)». [52]
® ¬ ®
Footnote
[1] FC 18.
[2] GS 48.
[3] Mt 19,6.
[4] AL 196-198.
[5] LG 11; AA 11.
[6] Ga 15,13.
[7] AL 106-110.
[8] AL 111-113.
[9] Robyn D. WAL ser. Ph.D, Darrah Westrup, Ph. D; Đôi lứa biết quan tâm lẫn nhau. Người dịch: Phạm Như Lan. NXB Văn Hóa Thông Tin, TP. HCM – 2013. Tr. 207.
[10] Ga 17,21.
[11] FC 57.
[12] DCE 14.
[13] AL 61-66.
[14] AL 314-316.
[15] FC 18-30.
[16] 1Ga 4,8.
[17] GS 12.
[18] FC 11.
[19] “Khái niệm hiệp thông (koinonia; κοινωνία) nằm ở trọng tâm của việc Hội Thánh hiểu biết về chính mình, với tư cách là mầu nhiệm của sự hợp nhất cá vị của mỗi người với Thiên Chúa Ba Ngôi và với tha nhân, được khởi sự nhờ đức tin, được hình thành như một thực tại trong Hội Thánh trần thế, và được hướng đến sự viên mãn cánh chung trong Hội Thánh thiên quốc” (Bộ Giáo Lý Đức Tin, Thư gởi các giám mục Công giáo về một vài khía cạnh của Hội Thánh hiệu như sự hiệp thông, 28/05/1992; số 3); Communio = com + unus; Hiệp = chung nhau; thông = cùng nhau hòa hợp. Hiệp thông 協 熥 = chung sức với nhau; hợp thông 合 熥 = đoàn kết thành một; các bên hòa hợp với nhau. Nghĩa hợp thông và hợp nhất thì mạnh hơn hiệp thông và hợp thông.
[20] Evangelii Gaudium, 274.
[21] SGLC 1469. Tội lỗi làm suy yếu hay cắt đứt sự hiệp thông huynh đệ. Bí tích Thống Hối canh tân hoặc tái tạo sự hiệp thông đó. Theo nghĩa này, bí tích không những chữa lành hối nhân, làm cho họ được hiệp thông lại với Hội Thánh, mà còn có một hiệu quả mang lại sức sống cho đời sống Hội Thánh, vốn đã phải chịu đựng tội lỗi của một trong các chi thể của mình. Tội nhân, một khi đã được phục hồi hay được củng cố trong mầu nhiệm các thánh thông công, thì được tăng cường nhờ sự hiệp thông các gia sản thiêng liêng giữa mọi chi thể sống động của Thân Thể Đức Kitô, hoặc còn đang trên đường lữ hành, hoặc đã ở nơi quê hương thiên quốc: “Nhưng phải thêm rằng việc giao hoà này với Thiên Chúa như còn dẫn tới những sự giao hoà khác, để hàn gắn nhiều đổ vỡ khác do tội gây ra: khi được tha thứ, hối nhân giao hoà với chính mình nơi phần thâm sâu nhất của hữu thể mình, nơi người đó tìm lại được sự thật nội tại của mình; hối nhân được giao hoà với anh em mà một cách nào đó họ đã xúc phạm và gây thương tổn; hối nhân được giao hoà với Hội Thánh; hối nhân được giao hoà với tất cả các thụ tạo” (Thánh Gioan Phaolô II, Tông huấn Reconciliatio et paenitentia&a