Ngày tháng: 22/12/2024
Đang truy cập: 69

Bài 33: Những cuộc thụ thai lạ lùng trong Kinh Thánh

Chúa nhật tới đây chúng ta mừng kính trọng thể Đức Mẹ Mân Côi. Bài Tin Mừng thuật lại biến cố truyền tin cho Đức Maria (Lc 1, 26-38), khởi đầu cho công trình cứu độ của Thiên Chúa thực hiện nơi Đức Kitô, với sự cộng tác của người nữ tỳ khiêm tốn của Thiên Chúa là Đức Maria.

Trong bài học hỏi này, chúng ta cùng tìm hiểu điều kỳ diệu được thần sứ Gáprien loan báo với Đức Maria, đó là sự thụ thai đặc biệt của Con Thiên Chúa nơi cung lòng Đức Maria. Đây là sự kiện có một không hai trong dòng lịch sử nhân loại. Dù vậy, Kinh Thánh cũng cho biết, nhiều lần quyền năng Thiên Chúa đã can thiệp để có những cuộc thụ thai lạ lùng nơi một số người phụ nữ. Vậy, chúng ta cùng điểm qua một số trường hợp thụ thai cách lạ lùng như được ghi lại trong Kinh Thánh.

Những cuộc thụ thai lạ lùng trong Cựu Ước

1. Bà Xara : là vợ của ông Ápraham (x. St 17,15), tên Hípri của bà có nghĩa là “công nương” hay “người phụ nữ quý phái,” và bà cũng là một phụ nữ có nhan sắc (x. St 12, 11.14). Thế mà cuộc đời của bà rất đỗi gian truân, suốt nhiều năm phải vượt núi băng đồi cùng Ápraham trải qua nhiều vất vả đói khát ; nhưng điều bất hạnh nhất vẫn là sự hiếm hoi son sẻ mà bà đã phải chịu (x. St 11,30). Bản văn dùng từ acara (עֲקָרָה) nghĩa chính “cằn cỗi, khô cằn”, chỉ người phụ nữ không có khả năng mang thai, không thể sinh con. Khi bà Xara biết mình không thể sinh con, bà đã phải cho nữ tỳ của mình là Haga đi lại với ông Ápraham để có người nối dõi (x. St 16, 2-3). Nhưng cách giải quyết đó lại khiến cho bà tủi nhục thêm, vì người nữ tỳ khi có thai lại khinh thường bà (c. 4). Điều đó cho thấy con người có khôn khéo cách mấy cũng chuốc lấy thất bại ; chỉ đến khi bà phải than trách với ông Ápraham và cầu xin Thiên Chúa phân xử (x. St 16,5). Lời cầu xin của bà đã được Thiên Chúa chấp nhận, Kinh Thánh dùng kiểu nói : “Đức Chúa viếng thăm bà Xara” có nghĩa là Thiên Chúa đã can thiệp để bà Xara thụ thai một cách lạ lùng và bà đã sinh ra Ixaác (x. St 21, 1-3), dù lúc ấy bà đã chín mươi tuổi, và ông Ápraham đã trăm tuổi (x. St 17,17).

2. Bà Rêbêca : là vợ của ông Ixaác. Cũng như bà Xara, bà này cũng son sẻ hiếm hoi, nhưng nhờ Ixaác khẩn cầu ĐỨC CHÚA cho vợ ông ... ĐỨC CHÚA nhậm lời ông” (St 25,21), Thiên Chúa lại can thiệp và bà đã thụ thai, không những vậy, bà còn sinh đôi : Êxau và Giacóp (x. 25, 24-26).

3. Bà Rakhen : Dù được Giacóp hết mực yêu thương, bà cũng không sinh con và khi than vãn với Giacóp về nỗi buồn tủi vì sự son sẻ của mình, bà đã bị Giacóp nặng lời : “Tôi đâu có thay quyền Thiên Chúa là Đấng đã không cho bà sinh đẻ !” (St 30,2). Tuy nhiên, Thiên Chúa đã nhớ đến bà, đã nhậm lời bà và đã cho bà sinh đẻ được. Bà đã thụ thai và sinh con trai, chính là Giuse (x. St 30, 22-24).

Ngoài ba người phụ nữ trên, cũng có những phụ nữ son sẻ khác, được Thiên Chúa can thiệp cho thụ thai cách lạ lùng, như bà mẹ của Samsôn (x. Tl 13, 2-3), bà Anna mẹ của Samuen (x. 1 Sm 1, 2.5.9-20).

Đọc những trình thuật về những cuộc thụ thai lạ lùng nơi những phụ nữ son sẻ, chúng ta nhận ra rằng : son sẻ là một nỗi tủi nhục cho những phụ nữ Do Thái, họ quan niệm đó là một sự dữ, vì nó nghịch lại với ý muốn của Thiên Chúa Sáng Tạo : “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất” (St 1,28). Thế mà, một điều đáng chú ý là trình thuật Kinh Thánh nhấn mạnh rằng, các bà vợ của ba vị tổ phụ đều son sẻ, đó là Xara, Rêbêca và Rakhen. Điều đó cho thấy việc Thiên Chúa tuyển chọn dân riêng là một mầu nhiệm, có tính cách nhưng không, và tất cả mang dấu ấn của ân sủng. Con người hoàn toàn bất lực trước sự son sẻ và tuổi già, chính ông Giacóp đã phải thốt lên với bà Rakhen : “Tôi đâu có thay quyền Thiên Chúa là Đấng đã không cho bà sinh đẻ !” (St 30,2), nhưng chính khi con người bất lực thì Thiên Chúa ra tay, vì “chẳng có điều gì kỳ diệu vượt sức ĐỨC CHÚA” (St 18,14), hoặc “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Đứng trước ân huệ nhưng không, con người phải biết mở lòng ra đón nhận và cất tiếng ca tụng như bà Anna, thân mẫu của Samuen : “Tâm hồn con hoan hỷ vì ĐỨC CHÚA, nhờ ĐỨC CHÚA, con ngẩng đầu hiên ngang … Vâng, con vui sướng vì được Ngài cứu độ” (1 Sm 2,1). Việc Chúa làm quả thật lạ lùng khi mà “người hiếm hoi thì sinh năm đẻ bảy, mẹ nhiều con lại ủ rũ héo tàn” (1 Sm 2,5b).

Những cuộc thụ thai lạ lùng trong Tân Ước

Những cuộc thụ thai lạ lùng được thuật lại trong Cựu Ước như thể dọn đường cho cuộc thụ thai có một không hai trong Tân Ước. Đó là cuộc thụ thai Đấng Cứu Thế trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Nhưng trước đó cũng có một cuộc thụ thai khác thường có liên quan tới cuộc thụ thai Đấng Cứu Thế, đó là cuộc thụ thai của bà Êlisabét, vợ của tư tế Dacaria. Cả hai ông bà nhà này đều sống công chính, nhưng cho đến khi về già, họ vẫn không có con (x. Lc 1, 5-7). Dù vậy, hai ông bà vẫn kiên trì cầu khẩn và trông ngóng lòng thương xót của Thiên Chúa. Vì thế, cuối cùng họ cũng được toại nguyện khi Thiên Chúa can thiệp để cho bà Êlisabét có thai một người con trai, người con đó chính là Gioan Tẩy Giả, người dọn đường cho Đấng Cứu Thế (x. Lc 1,76). Theo đó, có thể nói cuộc thụ thai lạ lùng của bà Êlisabét như một gạch nối giữa thời Cựu Ước và Tân Ước, Gioan Tẩy Giả như một ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước, và cũng là người giới thiệu Chúa Giêsu cho đồng bào ông (x. Ga 1, 29-34) và cho các môn đệ của ông (x. Ga 1, 35-37).

Cuộc thụ thai lạ lùng vượt trên tất cả những cuộc thụ thai được nói đến trong Kinh Thánh, chính là cuộc thụ thai Đấng Cứu Thế trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Tin Mừng theo thánh Mátthêu và Luca đều xác quyết sự trinh khiết của Đức Maria trong việc thụ thai Đức Giêsu (x. Mt 1, 18-23 ; Lc 26-38). Tuy nhiên, thánh Mátthêu chỉ vắn tắt và dừng lại nơi việc thụ thai đồng trinh của Đức Maria là để hoàn tất lời ngôn sứ Is 7,14 : “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai …” (Mt 1,23), nhưng để cho thấy việc thụ thai đồng trinh, thánh Mátthêu đã trích dẫn bản Hy Lạp với từ parthenos (παρθενος), có nghĩa là “trinh nữ”. Còn trong bản Hípri, tác giả dùng từ alma (עַלְמָה) có thể hiểu là “thiếu nữ”, “người phụ nữ trẻ” hay “cô con gái” nói chung. Cũng nên biết là hạn từ Hípri dùng để chỉ người “trinh nữ” là bơtula (בְתוּלָה) (x. St 24,16 ; Lv 21,3 ; Tl 19,24 ; Tv 45,15 ...). Thánh Luca trình bày cuộc thụ thai lạ lùng của Đấng Cứu Thế một cách chi tiết hơn qua cuộc đối thoại giữa Đức Maria và thiên sứ Gáprien, mà ngay câu mở đầu tác giả cho biết sự việc xảy đến cho “một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria” (Lc 1,27). Ở đây tác giả không gọi Đức Maria là “vợ” của thánh Giuse như Tin Mừng Mátthêu (x. Mt 1,20.24), mà xác định Đức Maria là một trinh nữ parthenos (παρθενος).

Các trình thuật Tin Mừng (x. Mt 1, 18-25 ; Lc 1, 26-38) xem việc thụ thai đồng trinh như một công trình của Thiên Chúa, vượt quá tầm hiểu biết và khả năng nhân loại (x. Lc l,34). Thiên thần đã nói với ông Giuse về Đức Maria, hôn thê của ông : “Người con bà cưu mang là do quyền năng Thánh Thần” (Mt 1,20). Hội Thánh nhìn nhận đây là việc Thiên Chúa thực hiện lời hứa qua miệng ngôn sứ Isaia : “Này đây Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai” (Is 7,14).

Tóm lại, qua việc tìm hiểu những cuộc thụ thai lạ lùng trong Kinh Thánh, chúng ta thấy được quyền năng vô biên và tình thương nhưng không của Thiên Chúa dành cho con người. Nhưng đồng thời chúng ta cũng thấy Thiên Chúa không thực thi bất cứ điều gì mà lại bất chấp con người, trái lại Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người và đòi hỏi sự cộng tác dù nhỏ bé, không đáng kể từ nơi những con người yếu đuối bất toàn.

Xin được kết thúc bài chia sẻ bằng bài Thánh ca của bà Anna, thân mẫu ngôn sứ Samuen (x. 1 Sm 2, 1-10), vì Chúa đã đoái thương đưa bà ra khỏi nỗi tủi hổ vì son sẻ, bài thánh ca này cũng là nguồn cảm hứng cho bài Magnificat của Đức Maria trong ngày thăm viếng bà Êlisabét.

Tâm hồn con hỷ hoan vì Chúa,
nhờ Chúa, con ngẩng đầu hiên ngang.
Con mở miệng nhạo báng quân thù :
vâng, con vui sướng vì được Ngài cứu độ.

Chẳng có Đấng Thánh nào như Chúa,
chẳng một ai khác ngoại trừ Ngài,
chẳng ai vững mạnh bằng Thiên Chúa chúng con.

Các ngươi chớ nhiều lời huênh hoang tự đắc,
miệng đừng thốt ra điều ngạo mạn,
vì Chúa là Thiên Chúa quán thông,
mọi hành vi, chính Người xét xử.

Cung nỏ người hùng bị bẻ tan,
kẻ yếu sức lại trở nên hùng dũng.

Người no phải làm mướn kiếm ăn,
còn kẻ đói được an nhàn thư thái.
Người hiếm hoi thì sinh năm đẻ bảy,
mẹ nhiều con lại ủ rũ héo tàn.

Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử,
đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên.
Chúa bắt phải nghèo và cho giàu có,
Người hạ xuống thấp, Người cũng nhắc lên cao.

Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi,
ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro,
đặt ngồi chung với hàng quyền quý,
tặng ngai vinh hiển làm sản nghiệp riêng.

Lm. Inhaxiô Hồ Văn Xuân, Tổng Đại Diện Gp. Sài Gòn và NPD. Các giờ kinh Phụng vụ

Nguồn: tgpsaigon.net


 

zalo
zalo