Ngày tháng: 30/12/2024
Đang truy cập: 20

Cấu Trúc Văn Hóa Xã Hội Của Người Việt Nam – Phần 1/2

Cấu Trúc Văn Hóa Xã Hội Của Người Việt Nam - Phần 1/2

 

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn

 

š ® ¬ ® ›

 

     Trong phạm vi bài này chúng ta khởi đầu với vài nhận định thực tế về hiện trạng xã hội rồi từ đó tìm hiểu khái quát về cấu trúc văn hoá xã hội của người Việt, nhất là một số nét tiêu cực, để tìm ra biện pháp hay đường hướng sửa chữa.

     I. TỪ NHỮNG NHẬN ĐỊNH THỰC TẾ

     Tình trạng xã hội Việt Nam hiện nay đã được các phương tiện truyền thông nói đến rất nhiều và có lẽ không cần lặp lại. Chúng tôi chỉ xin tóm tắt vài điểm nổi bật, đáng quan tâm sau đây:

     1. Một vài lĩnh vực cần quan tâm đặc biệt

     Nếu đi vào các lĩnh vực cụ thể, chúng ta thấy dân tộc Việt Nam hiện nay có nhiều vấn đề cần quan tâm tuỳ theo mức độ ưu tiên về tỷ lệ dân số hay tình trạng khẩn cấp về mặt xã hội:

- Hơn 60% dân số là người trẻ dưới 30 tuổi, mức độ tha hoá, tục hoá, sống buông thả để hưởng thụ vật chất nơi người trẻ rất cao.

- Gần 51% dân số là phụ nữ nhưng nhiều người còn bị bạo hành trong gia đình, chưa được hưởng sự bình đẳng về giới, chưa biết bảo vệ sức khoẻ sinh sản. Nhiều miền cao, vùng xa, nhất là đồng bằng sông Cửu Long có đến 60-80% phụ nữ mắc bệnh phụ khoa vì thiếu nước sạch. Gần 3 triệu người goá bụa sống nghèo khổ, trong đó hơn 2 triệu là phụ nữ. Do tình trạng nghèo khổ, nhiều phụ nữ bị lạm dụng tình dục, phải lấy chồng nước ngoài, thậm chí phải bán cả thân xác.

- 26% dân số sống trong tình trạng nghèo khổ (theo tiêu chuẩn mới của thế giới: thu nhập dưới 1USD/ngày), đặc biệt là đồng bào thiểu số, nhưng không biết phải xoá đói giảm nghèo như thế nào.

- 23 triệu người, đa số là nam giới, uống rượu và nghiện rượu dẫn đến bạo hành, ly dị, bất hạnh trong gia đình.

- Hơn 15 triệu người khuyết tật, trong đó có 1,2 triệu là trẻ em.

- Hơn 4 triệu người di dân phải làm ăn xa gia đình, nhiều người bị bóc lột sức lao động, sống trong những điều kiện thiếu thốn, một ít người trẻ sống thử trước hôn nhân.

- 1,4 triệu-2 triệu người phá thai mỗi năm, trong đó có nhiều người trẻ. Họ rất cần được học hỏi về giá trị sự sống, về giới tính, về tình yêu.

- Đại dịch HIV/AIDS với gần 265.000 người nhiễm HIV/AIDS.

- Nhiều tệ nạn xã hội như nghiện ma tuý (180.000 người), mãi dâm (hơn 100.000 người), nạn cờ bạc… xảy ra khắp nơi trong cộng đồng xã hội.

- Trình độ văn hoá dân chúng còn thấp, chỉ vừa tốt nghiệp cấp I, trong đó còn 6% dân số mù chữ, nhất là ở vùng quê, vùng cao.

     Đứng trước những nhu cầu lớn lao và cấp thiết của xã hội hiện nay, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích và mở rộng sự cộng tác của mọi người, không phân biệt đảng phái, tôn giáo, địa phương, người trong nước hay ngoài nước… để có thể tập hợp được sức mạnh toàn dân cũng như tranh thủ được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Có lẽ chúng ta cần phải vượt qua những nghi ngờ hay e ngại về ảnh hưởng của nhóm này, phe nọ để thực sự lo cho những đồng bào đang nghèo khổ, bệnh tật hay bị trói buộc bởi những tệ nạn xã hội. Chúng ta từng thấy có rất nhiều người, nhờ niềm tin tôn giáo, đã quảng đại dấn thân trong những môi trường khó khăn, nguy hiểm để chăm sóc những bệnh nhân HIV/AIDS, những người nghiện ma tuý, những phụ nữ lỡ lầm…

     Đứng trước thực tế đau xót của xã hội với nhiều vấn đề cấp thiết cần giải quyết cũng như trước tình trạng kém phát triển, chúng ta đặt câu hỏi: Tại sao lại xảy ra như thế và phải làm gì để sửa đổi? Đã có rất nhiều bài nghiên cứu và ý kiến đề xuất hành động của cá nhân và tập thể trong các lĩnh vực xã hội, kinh tế, chính trị, văn hoá… Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ rằng vấn đề cơ bản vẫn là đào tạo con người Việt Nam, nhưng muốn đào tạo kết quả phải hiểu rõ con người và cấu trúc của nó.

     2. Nhận định chung về con người Việt Nam

     Xét về mặt văn hoá, con người Việt Nam (VN) bị tác động bởi những yếu tố địa lý, lịch sử đã kết thành một thực thể phức tạp với nhiều đức tính và khuyết điểm. Chúng tôi tin rằng, chỉ khi hiểu rõ thật sự con người, ta mới có thể giải quyết những vấn đề trong gia đình và xã hội vì “sự thật sẽ giải phóng chúng ta” (x. Ga 8,32) dù sự thật ấy có thể làm chúng ta buồn lòng.

     Nói đến con người VN, chúng ta có thể nhắc đến bao điều kỳ diệu, bao đặc tính tốt đẹp mà nhiều người đã không ngớt lời ca tụng như Toan Ánh trong bộ Nếp Cũ - Con người VN, Sơn Nam trong Người Sài Gòn, Vương Hồng Sển trong Sài Gòn năm xưa… nhất là Vũ Hạnh (A. Pazzi) trong Người Việt kỳ diệu. Những lời ca tụng đó có thể ru ta vào giấc mộng dĩ vãng mà không dám nhìn thẳng vào thực tế để giải quyết những vấn đề hiện nay.

     Có lẽ chúng ta cần nhìn rõ con người VN để nhận ra cả hai mặt tốt, xấu, nhất là mặt xấu mà ít người dám nói vì sợ bị kết tội “vạch áo cho người xem lưng”. Nhà văn Bá Dương đã dám viết Người Trung Hoa xấu xí, được Nguyễn Hồi Thủ dịch sang tiếng Việt. Những bài viết này tác động mạnh đến dân tộc ông cũng như đóng góp nhiều cho công cuộc phát triển đất nước Trung Hoa. Chỉ trong vòng 50 năm qua, từ một dân tộc lạc hậu, chậm phát triển, nước Trung Hoa đã tiến lên địa vị của một cường quốc, và nhiều lĩnh vực vượt cả Anh, Pháp, Đức. Dân tộc Việt Nam ta đâu có thua kém người bạn láng giềng.

     Đã có những nghiên cứu lớn về con người Việt Nam, thí dụ như của Viện Nghiên cứu Xã hội Hoa Kỳ, kết quả rất đáng cho chúng ta lưu ý. Viện này đã đưa ra 10 đặc điểm của người Việt Nam như sau:

1. “Cần cù lao động, song để thoả mãn, nên tâm lý hưởng thụ còn nặng.

2. Thông minh, sáng tạo, song chỉ có tính chất đối phó, thiếu tư duy dài hạn, chủ động.

3. Khéo léo, song không duy trì đến cùng (ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng của sản phẩm).

4. Vừa thực tế, vừa mở rộng, song lại không có ý thức nâng cao lên thành lý luận.

5. Ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh, song ít học từ đầu đến đuôi nên kiến thức không có hệ thống, mất căn bản. Ngoài ra, học tập không phải vì tự thân của mỗi người (nhỏ học vì gia đình, lớn học vì sĩ diện, vì kiếm công ăn việc làm, ít vì chí khí, vì đam mê).

6. Xởi lởi, chiều khách, song không bền.

7. Tiết kiệm, song nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe khoang, thích hơn đời).

8. Có tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, song hầu như chỉ trong những hoàn cảnh, những trường hợp khó khăn, bần hàn; còn trong điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn thì tinh thần này ít xuất hiện.

9. Yêu hoà bình, nhẫn nhịn, nhưng nhiều khi lại hiếu chiến, hiếu thắng vì những lý do tự ái lặt vặt làm đánh mất đại cuộc.

10. Thích tự lập, nhưng lại thiếu tình liên kết để tạo ra sức mạnh (cùng một việc, một người làm thì tốt, ba người làm thì kém, bảy người làm thì hỏng)”.

- Những nhận định trên đây và những kết quả nghiên cứu khác có thể giúp ích nhiều cho chúng ta, nhưng tiếc là chúng chưa trình bày các lý do hình thành nên cấu trúc tâm lý xã hội của người Việt cũng như tìm ra được đường hướng sửa chữa những khuyết điểm trong cấu trúc. Điều này có lẽ cần đến sự nghiên cứu và làm việc lâu dài hơn của các nhà giáo dục, tâm lý, xã hội học.

     Trong phạm vi bài này, chúng tôi dùng phương pháp phân tích con người và hoàn cảnh văn hoá, xã hội để nêu lên một số điểm khái quát về con người VN thời xa xưa và hiện tại để giúp các nhà nghiên cứu tìm ra đường hướng đào tạo con người VN.

     II. CẤU TRÚC VĂN HOÁ XÃ HỘI CỦA NGƯỜI VIỆT NAM

     1. Ảnh hưởng về mặt địa lý

     Nước VN là một dải đất hình chữ S, nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, phía Đông bán đảo Đông Dương. Dù cùng một nguồn gốc, nhưng người VN lại rất khác với người Trung Hoa ở phía Bắc, với người Lào và Cambodia ở phía Tây, vì những rặng núi hình rẻ quạt ở phía Bắc và dãy Trường Sơn hùng vĩ ở phía Tây đã ngăn cách các dân tộc đó với người VN, ngăn cản phần nào sự hoà nhập của các nền văn hoá khác nhau. Phía Đông, Nam và Tây Nam của đất nước là Biển Đông và Ấn Độ Dương. Nền văn hoá dân tộc được xây dựng theo truyền thuyết những người con theo mẹ lên núi hái thuốc thành tiên và theo cha xuống biển vượt khó thành rồng. VN có 2.860 con sông có chiều dài từ 10km trở lên (x. Tổng Cục Du lịch, Non nước VN, Hà Nội, 2000, tr.9), trong đó có nhiều hệ thống sông lớn như sông Mêkông, sông Hồng. Gắn bó với núi cao, biển rộng, sông dài nên người VN thường có nhiều tình cảm cao thượng, biết nhìn xa trông rộng và gần gũi với thiên nhiên. Những tâm tình tốt đẹp này hình như đang bị sói mòn và biến chất, đặc biệt với làn sóng đô thị hoá hiện nay, nơi những cư dân thành thị sống trong những toà nhà cao tầng, những căn phòng nhỏ hẹp che chắn tầm mắt con người.

     Hướng tiến bị bên núi, bên biển ngăn cản buộc dân tộc phải hướng về phía Nam từ đồng bằng châu thổ sông Hồng ở miền Bắc (rộng 15.000km2), vượt qua các đồng bằng nhỏ hẹp ở miền Trung để vào tới đồng bằng sông Cửu Long (rộng 40.000km2) ở miền Nam. Bước chân khai phá của người Việt chỉ dừng lại trước biển cả ở cực Nam đất nước, nhưng thiên nhiên vẫn ưu đãi cho dân Việt nên bờ cõi tiếp tục mở rộng về phương Nam vì hằng năm đồng bằng Nam Bộ vẫn trải rộng lấn về phía biển từ 60-80m, do phù sa của các con sông Cửu Long bồi đắp. Người Việt, với tâm hồn của những người tiên phong khai hoang dựng nước, đã không sợ hiểm nguy, dám đối đầu với những thử thách, bất trắc của cuộc sống, đã viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc. Vì thế càng tiến vào niềm Nam, người Việt càng hành động phóng khoáng, cởi mở và liều lĩnh hơn.

     Khí hậu cũng ảnh hưởng khá nhiều đến tâm tính con người, tình trạng gia đình và hoạt động xã hội. VN nằm hoàn toàn trong vành đai nhiệt đới của nửa cầu Bắc, nghiêng về chí tuyến hơn là xích đạo nên có nhiệt độ cao, trung bình từ 220C-270C. Hằng năm, có khoảng 100 ngày mưa với lượng mưa trung bình từ 1.500 -2.000ml/cm2, độ ẩm khoảng  80%, số giờ nắng khoảng 1.500-2.000 giờ/năm. Do ảnh hưởng của gió mùa và địa hình phức tạp, nên khí hậu VN luôn thay đổi trong năm, giữa năm này với năm khác, giữa nơi này với nơi kia (từ Bắc xuống Nam và từ thấp lên cao). Nhìn chung, VN có một mùa nóng mưa nhiều và một mùa tương đối lạnh ít mưa. Nhưng khí hậu các tỉnh ở phía Bắc, từ đèo Hải Vân trở ra, thay đổi theo 4 mùa khá rõ rệt với xuân, hạ, thu, đông. Khí hậu này cũng tạo ra những bất lợi về thời tiết vì Việt Nam bị bão tố, lũ lụt, hạn hán thường xuyên đe doạ (x. Tổng Cục Du lịch, Non nước VN, Hà Nội, 2000, tr. 11-12).

     Do đó, tâm tính người VN có thể nói dễ thay đổi theo kiểu “sáng nắng chiều mưa” hơn những dân tộc sống trong các vùng khí hậu ổn định, ôn hoà. Gia đình từ đó cũng chịu những hậu quả của sự thay đổi thất thường này như: có nhiều cãi vã, xung đột, kém thuỷ chung hơn. Hoạt động kinh tế xã hội cũng chịu sự thay đổi thường xuyên do các quyết định bất nhất của người lãnh đạo. Nhận ra sự tác động của thời tiết, ta sẽ thấy người Việt cần tập tính kiên nhẫn, ôn hoà, ý chí vững mạnh thì mới có thể thực hiện những kế hoạch lâu dài.

     2. Về mặt lịch sử

     Tiếp đến chúng ta chú ý hơn về con người VN qua các giai đoạn lịch sử hình thành dân tộc, tức là chú ý đến khía cạnh văn hoá xã hội của người Việt.

     a. Giai đoạn tiền sử

     Người VN có nguồn gốc dân tộc trong khối các chủng Đông Nam Á (Austro-asiatique) hình thành từ 2 đại chủng Á (Mongoloid) và chủng phương Nam (Australoid): vào khoảng 10.000-8.000 năm trước Công nguyên (TCN). Sau đó từ 5.000 năm TCN, chủng Cổ Mã Lai (Indonesian) ở miền Đông Nam Á, phối hợp với các chủng Nam đảo, Nam Á để hình thành nên các nhóm Chàm - Môn Khmer - Việt Mường - Tày Thái - Mèo Dao - Tiền Thái - Tạng Miến - Hán: gồm 54 dân tộc Việt Nam (x. Lê Văn Chưởng, Cơ sở Văn hoá Việt Nam, NXB Trẻ, 1999, tr. 24-27; Trần Ngọc Thêm, Cơ sở Văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999; NN, Niên giám GHCGVN 2005, NXB Tôn giáo, tr. 454-466). Không gian văn hoá gốc VN thời tiền sử là không gian của các dân tộc có nền văn minh nông nghiệp lúa nước, văn minh đồ đồng và ngôn ngữ đơn lập. Sau đó đến những thế kỷ trước Công nguyên, không gian gốc này bị thu hẹp vì các dân tộc ở vùng Nam sông Dương Tử bị người Trung Hoa bành trướng và đồng hoá.

     Người Việt có những nét đặc thù của nền văn hoá nông nghiệp: tôn trọng và hoà hợp với thiên nhiên, có lối sống định canh, định cư và nền kinh tế tự cung, tự cấp. Trong mối quan hệ với gia đình, người Việt trọng nữ và nhiều cộng đồng xã hội còn bị ảnh hưởng theo chế độ mẫu hệ. Đời sống nông nghiệp gắn bó chặt chẽ với gia tộc và xóm làng, trọng tình hơn trọng lý, trọng đức hơn trọng tài, trọng văn hơn trọng võ. Lối nhận thức tư duy thiên về tổng hợp, mang tính chủ quan, theo cảm tính và kinh nghiệm hơn là mang tính phân tích khách quan và hợp lý theo một hệ thống suy tư rõ ràng.

     Trong cách ứng xử với môi trường xã hội, người Việt dễ dung hợp trong tiếp nhận, ngay cả trong tín ngưỡng. Ngoài tín ngưỡng bái vật, đa thần, người Việt đón nhận tam giáo Đông Phương: Nho - Phật - Lão, và sau này cả Thiên Chúa giáo. Niềm tin vào một chủ thể tối cao, gọi là Trời mà sau này các tôn giáo khác có thể xác định rõ hơn là Thiên, Chúa Trời, Đức Thượng Đế, Đấng Cao Đài, Đức Allah, Thiên Chúa,.. lúc nào cũng bàng bạc trong tâm hồn người Việt để thúc đẩy họ tin tưởng và sống theo lương tâm ngay chính của mình. Chính niềm tin ấy giúp cho đời sống họ được an vui “Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm, lấy rơm đun bếp…”, xã hội được ổn định “trời cao có mắt”, ngăn ngừa những hành động ác đức “thiên bất dung gian”…

     b. Giai đoạn thống trị của các đế chế Trung Hoa

     Thời gian này kéo dài trong 11 thế kỷ ảnh hưởng không ít tới con người cũng như gia đình và xã hội VN. Năm 179 TCN, nước Âu Lạc do An Dương Vương Thục Phán (257-208 TCN) lập nên với thành Cổ Loa bị Triệu Đà, vua của nước Nam Việt chiếm. Năm 111 TCN, nước Nam Việt bị chuyển sang tay nhà Hán rồi trải qua nhiều đời vua Trung Hoa cho đến năm 938, khi Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán, trên sông Bạch Đằng, mới khôi phục được nền độc lập cho đất nước.

     Dù sống dưới chế độ bóc lột hà khắc với chính sách “chia để trị” của ngoại xâm, người Việt vẫn kiên nhẫn chịu đựng gian khổ, biết chờ thời cơ trỗi dậy với cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43), Bà Triệu (248), Lý Bí (thế kỷ VI), Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (766-791). Tuy nhiên, vì sống quá lâu dưới ách thống trị, người Việt có đặc trưng thường nhút nhát, sợ sệt, không dám bày tỏ trực tiếp ý kiến của mình, nhất là trước mặt người lạ. Họ hay giấu diếm tình cảm của mình, chỉ thân thiện vồn vã bên ngoài để tránh cho quân thù khỏi chú ý, làm hại. Họ dễ nghi ngờ vì nghĩ rằng ai cũng có thể là kẻ thù, thiếu tin tưởng và ít cộng tác với người khác, ngay cả với người thân.

     Những đặc tính này tạo ra nhiều điểm bất lợi cho đời sống gia đình vì gia đình là một cộng đồng đòi hỏi sự hiệp thông trọn vẹn, sự cởi mở chân thành, tin tưởng và lo lắng cho nhau giữa các thành viên. Nó cũng tác hại rất lớn đến xã hội vì xã hội là một cộng đồng lớn hơn đòi hỏi mọi thành viên phải tin tưởng để cùng hợp tác với nhau lo cho công ích.

     Sự chia rẽ thiếu đoàn kết diễn ra khắp nơi, trong mọi ngành nghề, tổ chức của xã hội và cả trong các tổ chức tôn giáo. Dù thời Bắc thuộc đã qua nhưng những di chứng tiêu cực dường như vẫn còn ăn sâu trong tâm hồn người Việt.

     Hầu hết người Việt yêu mến quê hương và chống lại kẻ ngoại xâm. Để biểu thị sự bất hợp tác, họ chỉ làm việc cầm chừng và ra vẻ chăm chỉ dưới ánh mắt theo dõi hay dưới làn roi hành hạ của quân thù. Do làm mãi dưới chế độ này người Việt dễ trở thành người làm việc nửa vời, chỉ cố gắng khi có sự quan sát hay theo dõi của người khác thay vì làm việc với sự đam mê hay ý thức trách nhiệm.

     Ngoài ra, vì quan niệm tất cả những gì công cộng như vườn cây, đường xá, cầu cống… đều là của chung, do kẻ thù quản lý, nên họ chẳng thiết tha gìn giữ. Hơn nữa, những thứ chung đó cũng là do sưu cao thuế nặng của họ đóng cho Nhà nước đô hộ nên họ nghĩ có lấy cắp của công cũng chỉ là hoàn trả cho mình, thậm chí có người còn cho rằng: “Ăn cắp của công là không có tội”. Thái độ này dễ dẫn đến tệ nạn tham ô, lãng phí của công.

     Về mặt gia đình và xã hội, Nhà nước đô hộ Trung Hoa thời đó chỉ nhằm khai thác kinh tế nên không chú ý đến việc xây dựng và giáo hoá dân Việt. Bị ảnh hưởng bởi nền văn hoá Trung Hoa, xã hội VN thời đó theo chế độ đa thê: người đàn ông có thể có nhiều vợ, nhiều tỳ thiếp, nhất là những người giàu. Nền kinh tế dựa trên nông nghiệp thô sơ, cần có nhiều lao động khoẻ, nên gia đình càng đông con nhiều cháu thì càng tốt, nhất là con trai để nối dõi tông đường. Tinh thần trọng nữ trước đây bị đả phá. Xã hội theo chế độ gia trưởng, mọi quyền hành đều tập trung vào người đàn ông, nên phụ nữ thường bị đối xử bất bình đẳng “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Sống trong hoàn cảnh như thế, người phụ nữ phải âm thầm chịu đựng những thua thiệt và áp bức để thờ chồng, nuôi con.

     Những người đàn ông làm việc quần quật suốt ngày ngoài đồng, chiều về họ thường tụ tập bên chén rượu để quên đi nỗi vất vả nhọc nhằn. Những chai rượu làm từ nông sản ấy tuy có giúp họ quên đi nỗi cơ cực, nhưng lại ảnh hưởng nặng nề tới sức khoẻ và hạnh phúc gia đình. Khi người đàn ông say khướt trở về nhà, họ trở thành người nóng tính, hay đánh đập vợ con. Rượu đã tàn phá sức khoẻ của họ và làm con cái họ kém thông minh, thân thể yếu ớt. Tình trạng say sưa rất phổ biến ở nông thôn thời trước (ngay cả bây giờ đối với cư dân thành thị) nhưng chính quyền đô hộ vẫn cố tình làm ngơ, thậm chí ngầm khuyến khích, để giảm bớt sức đấu tranh của dân tộc Việt.

 

š ® ¬ ® ›

 

https://catechesis.net/cau-truc-van-hoa-xa-hoi-cua-nguoi-viet-nam-3/ (cập nhật ngày 11.5.2023)

---Còn tiếp---

 

zalo
zalo