NGHE TIẾNG VÀ ĐI THEO.
Chú giải Tin Mừng CN IV Phục Sinh năm C (Ga 10,27-30)
Bản Văn và dịch sát nghĩa
Hy Lạp | Việt |
22Ἐγένετο τότε τὰ ἐγκαίνια ἐν τοῖς Ἱεροσολύμοις, χειμὼν ἦν,
23 καὶ περιεπάτει ὁ Ἰησοῦς ἐν τῷ ἱερῷ ἐν τῇ στοᾷ τοῦ Σολομῶνος.
24 ἐκύκλωσαν οὖν αὐτὸν οἱ Ἰουδαῖοι καὶ ἔλεγον αὐτῷ· ἕως πότε τὴν ψυχὴν ἡμῶν αἴρεις; εἰ σὺ εἶ ὁ χριστός, εἰπὲ ἡμῖν παρρησίᾳ.
25 ἀπεκρίθη αὐτοῖς ὁ Ἰησοῦς· εἶπον ὑμῖν καὶ οὐ πιστεύετε· τὰ ἔργα ἃ ἐγὼ ποιῶ ἐν τῷ ὀνόματι τοῦ πατρός μου ταῦτα μαρτυρεῖ περὶ ἐμοῦ·
26 ἀλλ᾽ ὑμεῖς οὐ πιστεύετε, ὅτι οὐκ ἐστὲ ἐκ τῶν προβάτων τῶν ἐμῶν.
27 τὰ πρόβατα τὰ ἐμὰ τῆς φωνῆς μου ἀκούουσιν, κἀγὼ γινώσκω αὐτὰ καὶ ἀκολουθοῦσίν μοι,
28 κἀγὼ δίδωμι αὐτοῖς ζωὴν αἰώνιον καὶ οὐ μὴ ἀπόλωνται εἰς τὸν αἰῶνα καὶ οὐχ ἁρπάσει τις αὐτὰ ἐκ τῆς χειρός μου.
29 ὁ πατήρ μου ὃ δέδωκέν μοι πάντων μεῖζόν ἐστιν, καὶ οὐδεὶς δύναται ἁρπάζειν ἐκ τῆς χειρὸς τοῦ πατρός.
30 ἐγὼ καὶ ὁ πατὴρ ἕν ἐσμεν.
31 Ἐβάστασαν πάλιν λίθους οἱ Ἰουδαῖοι ἵνα λιθάσωσιν αὐτόν. | 22 Khi ấy, tại Giêrusalem diễn ra Lễ Cung Hiến Đền Thờ, vào mùa đông.
23 Đức Giêsu cứ đi tới đi lui trong đền thờ, tại hành lang Salomon.
24 Những người Do Thái bao quanh Người và nói cùng Người: “Ông còn để cho tâm hồn của chúng tôi bối rối đến bao giờ? (nghĩa đen: lấy mất hồn của chúng tôi) Nếu ông là Đấng Kitô thì hãy nói công khai cho chúng tôi đi.”
25 Đức Giêsu trả lời cùng họ: “Tôi đã nói cùng các ông nhưng các ông không tin tôi. Những công việc tôi làm nhân danh Cha của tôi, những việc ấy làm chứng về tôi”.
26 Nhưng các ông vẫn không tin tôi, bởi vì các ông không phải từ những con chiên của tôi.
27 Những con chiên của tôi thì nghe tiếng của tôi và tôi biết chúng và chúng theo tôi.
28 Và tôi trao ban cho chúng sự sống đời đời và chúng sẽ không bao giờ hư mất. Không ai có thể cướp chúng khỏi tay tôi.
29 Cha của tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi thì lớn hơn tất cả và không ai có thể lấy khỏi tay Cha.
30 Tôi và Cha là một.
31 Những người Do Thái lại nhặt đá để ném Người. |
Bối cảnh
Trong bối cảnh trực tiếp Ga 10,27-30 nằm trong trình thuật liên quan đến căn tính “Đấng Kitô” của Đức Giêsu (Ga 10,22-31). Người Do Thái muốn Đức Giêsu phải bộc lộ căn tính của Người cách tỏ tường (Ga 10, 24). Trong khi trả lời Đức Giêsu nói về sự cứng lòng của những người Do Thái và mô tả những đặc tính của những con chiên của Người. Hình ảnh những con chiên của Đức Giêsu gợi nhớ đến bài giảng về “người mục tử nhân lành” (Ga 10,1-18), trong đó Đức Giêsu đã diễn tả những đặc tính của những con chiên. Những con chiên nói chung luôn nghe tiếng của mục tử và đi theo mục tử của chúng, chúng không nhận biết tiếng của những người lạ (Ga 10,3-5). Những con chiên của mục tử Giêsu luôn “biết” Người, như Người “biết” chúng (Ga 10, 14). Những con chiên của Đức Giêsu, phải nghe tiếng của Người và được quy tụ thành một đàn chiên và một vị mục tử (Ga 10, 16). Trong bối cảnh rộng hơn, bối cảnh thời gian – Lễ Cung Hiến Đền Thờ - liên hệ cách chặt chẽ với các Lễ khác được nói đến trong Tin Mừng thứ tư. Lễ Cung Hiến Đền Thờ là Lễ cuối cùng trong loạt những Lễ bắt đầu từ chương 5: Ngày Sabát (Ga 5,9-10), Lễ Vượt Qua (Ga 6, 4), Lễ Lều (Ga 7, 2), và Lễ Cung Hiến Đền Thờ (Ga 10, 22). Không gian đền thờ, nơi mà Đức Giêsu giảng dạy, đã được đề cập trong Ga 7,14.28. Câu hỏi về Đấng Kitô đã bắt đầu trong chương 7 (7,26.31.41-42; 9, 22) và được lặp lại trong đoạn này (Ga 10, 24). Căn tính “Đấng Mêsia” hay “Đấng Kitô” đã được ông Anrê nhận dạng ngay từ đầu Tin Mừng, và giới thiệu với ông Phêrô: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia (nghĩa là Đấng Kitô)” (Ga 1, 41). Người phụ nữ Samari cũng đã nhận ra Người là “Đấng Kitô” khi Người nói cho chị biết tất cả những điều chị đã từng làm (Ga 4, 29). Mục đích của toàn bộ những điều được ghi lại trong Tin Mừng thứ tư là để anh chị em “tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa và để nhờ tin mà được sự sống đời đời nhờ danh Người” (Ga 20, 31). Tiếp theo đoạn văn này là đoạn tranh luận về căn tính “Con Thiên Chúa” của Đức Giêsu (Ga 10,32-39).
Cấu trúc
Bối cảnh (22-23)
(A)Nghi vấn của những Người Do Thái: Có phải là Đấng Kitô? (24)
(B) Đáp trả của Đức Giêsu:
- Chiên của Người thì nghe và theo Người (27)
- Người ban cho chiên sự sống đời đời (28)
- Mặc khải về Cha: Đấng trao ban, lớn hơn tất cả, gìn giữ tất cả (29)
- Tương quan Cha và Đức Giêsu: Là một (30)
(A’) Phản ứng những người Do Thái: Ném đá Đức Giêsu (31) |
Một số điểm chú giải
1. Lễ Cung Hiến Đền Thờ: Đền thờ Giêrusalem là thánh địa quốc gia, là trung tâm của toàn bộ những sinh hoạt của dân Israel, đặc biệt là nhưng sinh hoạt tôn giáo. Cuộc cải cách của vua Giôsiah (639-609 tCN) đã biến Giêrusalem thành một trung tâm thờ phượng duy nhất với đền thờ là tâm điểm của nơi Chúa hiện diện[1]. Lịch sử Israel ghi nhận hai thời kỳ biến động và gắn liền với hai đền thờ cùng xây trên một địa điểm duy nhất: Thời kỳ đệ nhất đền thờ và thời kỳ đệ nhị đền thờ. Địa điểm ấy ngày nay chính là nơi tọa lạc của một đền thờ Hồi Giáo, thường được gọi là “Dome of the Rock” (Vòm Đá). Đền thờ thứ nhất được vua Salomon xây dựng vào năm thứ tư triều đại của ông và hoàn tất bảy năm sau đó. Đền thờ này đã bị đế quốc Babylon phá hủy cùng với thành phố Giêrusalem vào năm 586/7 tCN, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của vương quốc miền Nam (Giuđa), và kéo theo thời kỳ lưu đày nổi tiếng, thường được gọi là “cuộc lưu đày Babylon”. Hoàng đế Cyrus của Ba Tư, cho phép nhóm người lưu đày trở về xây dựng lại đền thờ thứ hai (khoảng năm 520-515 tCN). Đền thờ thứ hai này thường được gọi là Đền Thờ Dêrúbbabel, vì ông là lãnh đạo chính trị cấp cao khi đền thờ được xây lại. Đất Giuđa lúc bấy giờ chỉ còn là một tỉnh chư hầu của đế quốc Ba Tư. Đền thờ này được vua Hêrôđê cả tái thiết và mở rộng dưới triều đại của ông (37 tCN – 4 sCN), nên cũng được gọi là “đền thờ của vua Hêrôđê”[2]. Công việc tái thiết của vua Hêrôđê cả bắt đầu từ năm 19/20 tCN. Sau khi vua Hêrôđê cả qua đời công trình này kéo dài mãi cho đến năm 27/28 sCN. Chính vì vậy, những người Do Thái nói đến khoảng thời gian đền thờ được xây dựng là 46 năm (Ga 2,20)[3]. Đền thờ này bị vua Syria, tên là Antiôkhô IV (175-164 tCN) làm cho ra ô uế từ năm 167-164, bằng cách xây một bàn thờ thần ngoại (thần Zeus), cho dựng tượng “đồ ghê tởm hoang tàn” trên bàn thờ dâng lễ toàn thiêu vào ngày 15 tháng Kítlêu, năm 145 tCN (= tháng 12 năm 167)[4]. Ngày 25 tháng chín, năm 148 (=14 tháng 12 năm 164 TCN), anh em nhà Macabê đã phản kháng đế chế Hy Lạp, chiếm lại đền thờ. Ngay lập tức, họ tiến hành thanh tẩy và tái cung hiến Đền Thờ (1 Mcb 4,41-46). Lễ Cung Hiến Đền Thờ là Lễ kỷ niệm biến cố này. Lễ này trong tiếng Do Thái gọi là Hanukkah, nghĩa là “sự cung hiến”. Lễ Cung Hiến Đền Thờ diễn ra khoảng ba tháng sau Lễ Lều, vào khoảng giữa mùa đông (tháng Mười Hai).
2. Hành lang Salomon: Khuôn viên đền thờ Giêrusalem thời Đức Giêsu được bao quanh bởi bốn hành lang. Hành lang Salomon là một hành lang nổi tiếng được nhắc đến ba lần trong Tân Ước. Ngoài Tin Mừng thứ tư, nó còn được sách Công Vụ nói đến hai lần nữa. Lần thứ nhất, nó gắn liền với buổi giảng dạy của ông Phêrô và ông Gioan. Khi người bại liệt được chữa lành cứ dính chặt với hai ông, thì toàn dân kinh ngạc và chạy đến với hai ông tại hành lang gọi là “hành lang Salomon (Cv 3, 11). Lần thứ hai, hành lang này được nhắc đến như là nơi các tín hữu thời sơ khai thường tụ họp với nhau với sự đồng tâm, nhất trí (Cv 5, 12). Hành lang Salomon, được xem là hành lang cổ nhất, nằm ở phía Tây của khuôn viên Đền Thờ. Nó được gắn liền với tên của vua Salomon, có lẽ vì nó là phần còn lại của Đền Thờ do vua Salomon xây dựng[5]. Trong bối cảnh này, hành lang Salomon trở thành nơi mà Đức Giêsu mặc khải Người là Đấng Kitô và là Con Thiên Chúa. Mặc khải quan trọng này diễn ra trên hành lang Salomon có liên hệ với điều Đức Giêsu đã nói trong Tin Mừng Nhất Lãm: “Mà đây thì còn hơn Salomon nữa” (Mt 12, 42; Lc 11, 31). Người vượt trội hơn Salomon về vị thế vì Người là Đấng Mêsia và là Thiên Chúa.
3. Những người Do Thái: Nhân vật “những người Do Thái” xuất hiện từ rất sớm (Ga 1, 19) và thường đóng vai là những đối thủ của Đức Giêsu, những người “chống đối và tìm giết Người (x. 5,16-18)[6]. Họ thường xuất hiện trong vị thế đối lập với Đức Giêsu. Họ phàn nàn không cho người bại liệt được chữa lành “vác chõng” vì hôm đó là ngày Sabát (Ga 5, 10). Họ “bắt bớ” Đức Giêsu (Ga 5, 16), rồi “tìm mọi cách để giết Người” (5, 18; 7, 1; 10, 31; 19,7.12). Họ sẵn sàng trục xuất bất kỳ ai tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia ra khỏi Hội Đường (Ga 9, 22)[7]. Trong trình thuật về Thương Khó, nhóm nhân vật này đã “điệu Đức Giêsu lên dinh quan Tổng Trấn” (Ga 18, 28); Họ xin tha cho Baraba mà lên án xử tử Đức Giêsu (Ga 18, 40; 19, 7). Trong bối cảnh của Ga 10,22-31, nhân vật “những người Do Thái” xuất hiện hai lần. Lúc đầu họ đặt câu hỏi và mong muốn Đức Giêsu bộc lộ căn tính “Kitô” của Người (Ga 10, 24), nhưng cuối cùng họ đã lượm đá để ném Đức Giêsu (Ga 10, 31). Họ thuộc nhóm “những người Do thái” thù ghét và muốn giết Đức Giêsu. Tin Mừng thứ tư, còn nói đến hai nhóm Người Do Thái khác nữa. Đó là những “Người Do Thái” chung chung, thuộc dân tộc Do Thái: “Lễ Vượt Qua của những người Do Thái” (Ga 2, 13); “Việc thanh tẩy theo phong tục của những người Do Thái” (Ga 2, 6); “ông Nicôđêmô, một thủ lãnh của những người Do Thái” (Ga 3, 1)… Nhóm “những người Do Thái” còn lại là những người đã tin vào Đức Giêsu: “Đức Giêsu nói với những người Do Thái đã tin vào Người” (Ga 8,30-31); “Trong số những người Do Thái đến thăm cô Maria và được chứng kiến việc Đức Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người” (Ga 11, 45; 12, 11).
4. Đấng Kitô: Tất cả các tác giả sách Tin Mừng đều cố gắng chứng minh Đức Giêsu Nadarét chính là Đấng Mêsia (Đấng Kitô) mà dân IsraEL hằng mong đợi. Tác giả Máccô đã giới thiệu Đức Giêsu là Đấng Kitô ngay câu đầu tiên của Tin Mừng: “Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô [Con Thiên Chúa]” (Mc 1, 1). Tác giả Mátthêu cũng cho biết Đức Giêsu chính là Đấng Kitô (Mt 1, 16). Tác giả Luca cũng không ngoại lệ: “Ngày hôm nay một Đấng Cứu Độ đã được sinh ra cho anh em trong thành của vua Đavít, Người là Đấng Kitô, Đức Chúa” (Lc 2, 11). Tin Mừng thứ tư dẫu khởi đầu bằng “Lời Tựa”, giới thiệu Đức Giêsu là “Ngôi Lời” và là “Thiên Chúa” (Ga 1, 1), tác giả cũng không quên gọi Đức Giêsu là “Giêsu Kitô” như tác giả Máccô: “Lề Luật được Thiên Chúa ban qua ông Môsê nhưng ân sủng và sự thật thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có” (Ga 1, 17). Hơn nữa, ngay từ đầu, ông Anrê đã dễ dàng nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia (nghĩa là Đấng Kitô) và giới thiệu với em mình là ông Phêrô (Ga 1, 41). Người phụ nữ Samari cũng đã nhận ra căn tính “Kitô” nơi Đức Giêsu: “Đến mà xem, có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” (Ga 4, 29), bởi vì chính Đức Giêsu đã thừa nhận “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (Ga 4, 26). Vào cuối Tin Mừng, tác giả cho biết mục đích của những gì ông viết ra là để “anh chị em tin Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà có sự sống nhờ danh Người” (Ga 20, 31). Tuy có nhiều người nhận ra căn tính Mêsia nơi Đức Giêsu, kiến thức ấy vẫn là một thách đố đối với nhóm những lãnh đạo Do Thái, đại diện là nhân vật “những người Do Thái”. Họ nài nỉ Đức Giêsu: “Nếu ông là Đấng Kitô, hãy nói công khai cho chúng tôi biết” (Ga 10, 24). Trước đó, họ đã tranh luận gay gắt về nguồn gốc Kitô của Đức Giêsu: “Ông ấy, chúng ta đã biết ông xuất thân từ đâu rồi, còn Đấng Kitô, khi Người đến, không ai biết Người xuất thân từ đâu cả” (Ga 7, 27); “Đấng Kitô mà lại xuất thân từ Galilê ư? Nào Thánh Kinh đã chẳng nói là Đấng Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Đavít và từ Bếtlehem làng của vua Đavít sao?” (Ga 7, 42). Nguồn gốc trần thế bình thường của Đức Giêsu, là một cản trở không nhỏ cho việc họ nhìn nhận Người là Đấng Mêsia họ đang mong chờ. Yêu cầu của “những người Do Thái” trong bối cảnh này rất giống với yêu cầu của Thượng Hội Đồng Do Thái trong cuộc xét xử Đức Giêsu: “Ông có phải là Đấng Mêsia thì nói cho chúng tôi biết” (Lc 22, 67). Theo tác giả R. Brown, sở dĩ họ đòi Đức Giêsu nói công khai rằng Người là Đấng Kitô, vì trước đó Đức Giêsu đã dùng ngôn ngữ biểu tượng khi nói rằng Người là một “mục tử nhân lành” (10,11.14). Trong truyền thống Cựu Ước, mục tử là biểu tượng quen thuộc cho một vị vua thuộc dòng dõi Đavít (x. Ed 34, 23). Những ám chỉ về thân phận Kitô xuất hiện trong đầu những “người Do Thái” khi Người giới thiệu mình là một mục tử[8].
---Còn tiếp---
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD.
Nguồn: https://josephpham-horizon.blogspot.com/2022/05/nghe-tieng-va-i-theo-chu-giai-tin-mung.html (Cập nhật ngày 14/05/2025)
----------------------------------------------------------------------
[1] W. von Meding, “The Temple”, The New International Dictionary of New Testament Theology, vol 3: Pri-Z (ed. C. Brown) (Grand Rapids 1978) 783-784.
[2] W. von Meding, “The Temple”, 787-788; C.L. Meyers, “The Temple”, The Harpercollins Bible Dictionary (ed. P.J. Achtemeier) (New York 1996) 1096-1104.
[3] R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII). Introduction, translation, and notes (AnB; New Haven – London 2008) XXIX, 116.
[4] “Ngày mười lăm tháng Kít-lêu, năm một trăm bốn mươi lăm, vua cho dựng Đồ ghê tởm hoang tàn trên bàn thờ dâng lễ toàn thiêu và cho lập các bàn thờ trong các thành miền Giuđa chung quanh Giêrusalem” (1 Mcb 1,54).
[5] F.J. Moloney, The Gospel of John (SP 4; Collegeville 1998) 319.
[6] X. G.L.M. Thông, Chú Giải Tin Mừng Gioan Tập 1. Ga 1,1 – 2,22 (Hà Nội 2021) 101.
[7] X. J.P.D. Thạch, “Hãy Phá Hủy Đền Thờ Này, Tôi sẽ Phục Hồi Nó Trong Ba Ngày” [LỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: "HÃY PHÁ HỦY ĐỀN THỜ NÀY, TÔI SẼ PHỤC HỒI NÓ TRONG BA NGÀY" (josephpham-horizon.blogspot.com)].
[8] R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII). Introduction, translation, and notes, 406.