Ngày tháng: 22/02/2025
Đang truy cập: 87

Chúa Nhật IV Thường Niên - Năm C (1/2)

VỊ NGÔN SỨ BỊ NGƯỜI ĐỒNG HƯƠNG LOẠI BỎ.

Chú Giải Tin Mừng CN IV TN C (Lc 4,21-30)

 

Bản văn và dịch sát nghĩa

Hy Lạp

Việt

21 ἤρξατο δὲ λέγειν πρὸς αὐτοὺς ὅτι σήμερον πεπλήρωται ἡ γραφὴ αὕτη ἐν τοῖς ὠσὶν ὑμῶν.

 

 22 Καὶ πάντες ἐμαρτύρουν αὐτῷ καὶ ἐθαύμαζον ἐπὶ τοῖς λόγοις τῆς χάριτος τοῖς ἐκπορευομένοις ἐκ τοῦ στόματος αὐτοῦ καὶ ἔλεγον· οὐχὶ υἱός ἐστιν Ἰωσὴφ οὗτος;

 

23 καὶ εἶπεν πρὸς αὐτούς· πάντως ἐρεῖτέ μοι τὴν παραβολὴν ταύτην· ἰατρέ, θεράπευσον σεαυτόν· ὅσα ἠκούσαμεν γενόμενα εἰς τὴν Καφαρναοὺμ ποίησον καὶ ὧδε ἐν τῇ πατρίδι σου.

 

24 εἶπεν δέ· ἀμὴν λέγω ὑμῖν ὅτι οὐδεὶς προφήτης δεκτός ἐστιν ἐν τῇ πατρίδι αὐτοῦ.

 

 25 ἐπ᾽ ἀληθείας δὲ λέγω ὑμῖν, πολλαὶ χῆραι ἦσαν ἐν ταῖς ἡμέραις Ἠλίου ἐν τῷ Ἰσραήλ, ὅτε ἐκλείσθη ὁ οὐρανὸς ἐπὶ ἔτη τρία καὶ μῆνας ἕξ, ὡς ἐγένετο λιμὸς μέγας ἐπὶ πᾶσαν τὴν γῆν,

 

 26 καὶ πρὸς οὐδεμίαν αὐτῶν ἐπέμφθη Ἠλίας εἰ μὴ εἰς Σάρεπτα τῆς Σιδωνίας πρὸς γυναῖκα χήραν.

 

 27 καὶ πολλοὶ λεπροὶ ἦσαν ἐν τῷ Ἰσραὴλ ἐπὶ Ἐλισαίου τοῦ προφήτου, καὶ οὐδεὶς αὐτῶν ἐκαθαρίσθη εἰ μὴ Ναιμὰν ὁ Σύρος.

 

28 καὶ ἐπλήσθησαν πάντες θυμοῦ ἐν τῇ συναγωγῇ ἀκούοντες ταῦτα

 

 29 καὶ ἀναστάντες ἐξέβαλον αὐτὸν ἔξω τῆς πόλεως καὶ ἤγαγον αὐτὸν ἕως ὀφρύος τοῦ ὄρους ἐφ᾽ οὗ ἡ πόλις ᾠκοδόμητο αὐτῶν ὥστε κατακρημνίσαι αὐτόν·

 

 30 αὐτὸς δὲ διελθὼν διὰ μέσου αὐτῶν ἐπορεύετο. (Lk. 4:21-30 BGT)

21 Người bắt đầu nói cùng họ rằng “hôm nay lời đã được viết văng vẳng trong tai quý vị đã được hoàn tất”.

 

22 và tất cả mọi người cứ làm chứng về Người và cứ kinh ngạc về những lời hay ý đẹp từ miệng Người phát ra và họ nói: “Ông này không phải là con trai của ông Giuse hay sao?”

 

23 Người nói với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những điều chúng tôi nghe nói đã xảy ra Caphácnaoum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê hương ông xem nào!”

 

24 Người nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: Không một ngôn sứ nào được chào đón tại quê hương mình”.

 

25 “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Êlias, khi trời đóng lại suốt ba năm sáu tháng, một nạn đói lớn xảy ra trên toàn mặt đất, có nhiều bà góa ở trong nước Ítrael;

 

26 thế mà ông không được sai đến cùng một ai trong họ, ngoại trừ đến với bà góa thành Xarépta miền Xiđonos.

 

27 Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisaios, có nhiều người phong hủi ở trong nước Ítrael, nhưng không người nào được sạch, ngoại trừ ông Naaman, người xứ Xyros thôi.”

 

28 Sau khi nghe những điều ấy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ.

 

29 Sau khi đứng dậy, họ trục xuất Người ra khỏi thành và dẫn Người lên tận đỉnh núi mà trên đó thành được xây, để xô Người xuống vực.

 

30 Tuy nhiên, sau khi băng qua giữa họ, Người tiếp tục hành trình.

 

Bối cảnh

Lc 4,21-30 tiếp tục trình thuật về một buổi giảng dạy của Đức Giêsu tại Nadarét, quê hương của Người. Khác với các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm khác, Luca đặt buổi giảng này vào đầu sứ vụ giảng dạy của Đức Giêsu tại vùng Galilê. Trước đó, trong phần giới thiệu tổng quát về sứ vụ, tác giả đã cho biết “danh tiếng về Đức Giêsu đã lan truyền ra khắp các vùng lân cận”. “Việc danh tiếng Người lan ra” có thể là một dấu hiệu tích cực về hình ảnh của Đức Giêsu trong lòng dân chúng. Tuy nhiên, ở Nadarét thì khác. Đoạn văn ngay trước đoạn văn này (Lc 4,16-20, Đức Giêsu đã giới thiệu về mình như là một Đấng Được Xức Dầu và thi hành sứ vụ như lời ngôn sứ Isaiah đã nói. Đoạn Lc 4,21-30 là một trình thuật về phản ứng của dân làng Nadarét với vị Mêsiah ngôn sứ, đồng thời cũng là người đồng hương của họ. Phản ứng của họ làm nổi bật lên chủ đề chính của toàn bộ Tin Mừng: Sự chối từ Đấng Mêsiah. Sự chối từ của dân làng Nadarét là khởi đầu cho nhiều sự chối từ khác và đỉnh điểm là sự thù ghét, chống đối của các lãnh đạo Do Thái và một bộ phận dân chúng tại Giêrusalem, đã dẫn đến cái chết của Đấng Mêsiah. Qua lời giải thích của Đức Giêsu độc giả có dịp nghe lại hai câu chuyện phép lạ dành cho bà góa thành Xarépta thời ngôn sứ Êlias và dành cho ông Naaman, người Xyros thời ngôn sứ Êlisaios. Những câu chuyện này giới thiệu về sứ vụ của Đấng Mêsiah đến với dân ngoại để mang ơn cứu độ cho họ. Sau câu chuyện này, là những câu chuyện liên tục về những phép lạ của Đức Giêsu tại Caphácnaoum, trong khi tại quê nhà Nadarét, Người không những không thể làm một phép lạ nào mà còn bị đe dọa ném xuống vực.

 

Cấu trúc: Trình thuật này được sắp xếp theo cấu trúc xen kẽ giữa những hành động của Đức Giêsu và phản ứng của dân chúng. Đức Giêsu là nhân vật khởi đầu và kết thúc trình thuật. Phản ứng của dân chúng từ chuyển động từ nghi vấn đến tức giận, trục xuất Đức Giêsu ra khỏi thành, dẫn lên đỉnh núi để ném Người xuống. Đức Giêsu bình thản giảng dạy và tiếp tục cuộc hành trình.

 

  Công bố của Đức Giêsu: Căn tính Mêsiah ngôn sứ (4, 21)

 

             Nghi vấn của dân chúng: Con ông Giuse (4, 22)

 

  Giải thích của Đức Giêsu: Thiên Chúa đã thi ân cho dân ngoại (4,23-27)

 

             Phản ứng của dân chúng: Tức giận, trục xuất, dẫn lên đỉnh núi để ném (4, 28-29)

 

   Đức Giêsu tiếp tục cuộc hành trình (4, 30)

 

 

Một số điểm chú giải

 

1.     Lời đã được chép: “Lời đã được chép” trong bối cảnh này là lời ngôn sứ Isaiah (Is 61,1-2) liên quan đến căn tính và sứ vụ của chính Đức Giêsu. Đây là lời ngôn sứ Isaiah nói về ơn gọi và sứ mạng của riêng mình. Tuy nhiên, qua lời công bố của Đức Giêsu, độc giả có thể hiểu rằng đây là lời tiền báo về sứ mạng của Đấng Mêsiah ngôn sứ[1]. Đức Giêsu có căn tính là Đấng Được Xức Dầu. Thiên Chúa đã xức dầu Đức Giêsu bằng Thánh Linh để từ đó Người làm mọi sự trong quyền năng của Thánh Linh. Những sứ vụ của Đấng Được Xức Dầu bao gồm: “Loan báo Tin Mừng cho người nghèo khổ, giải thoát cho người bị giam cầm, mang lại ánh sáng cho những người mù, giải cứu những ai cùng khổ, và công bố một năm hồng ân của Chúa”.

 

2.     “Làm chứng” và kinh ngạc: Đám đông xem chừng vừa làm chứng, vừa kinh ngạc trước vị thế của Đức Giêsu. Động từ “làm chứng” ở trong bối cảnh này gây nhiều tranh luận. Đại từ ngôi thứ ba số ít (Người), ở thuộc cách, đi với động từ này cũng không dễ hiểu tý nào. Tác giả Jeremias cho rằng đại từ dùng ở tặng cách có thể hiểu theo hai nghĩa: (i) Tặng cách thuận lợi và (ii) Tặng cách bất lợi. Nghĩa là, họ có thể làm chứng ủng hộ Người, hoặc là làm chứng chống lại Người. Trong bối cảnh này, Jeremias nghĩ rằng động từ “làm chứng” nên được hiểu theo nghĩa thù ghét: “Tất cả họ đều làm chứng chống lại Người và kinh ngạc về những lời về lòng thương xót của Chúa đến từ miệng Người”[2]. Cách hiểu này có vẻ có lý vì những phản ứng tiếp theo của đám đông đối với Đức Giêsu đều nghiêng về hướng tiêu cực. Họ kinh ngạc về những điều Đức Giêsu nói nhưng lại đặt vấn đề về nguồn gốc của Người. Đó là biểu hiện của một sự nghi ngờ.

 

3.     Những lời hay ý đẹp (τοῖς λόγοις τῆς χάριτος τοῖς): Nghĩa đen của cụm từ này là “những lời ân sủng”. Có ít nhất ba cách hiểu được R. Blight liệt kê: (1) Một lối giải thích cách thức Đức Giêsu trình bày thông điệp của Người. Họ kinh ngạc trước lời ân sủng của Người. Lời của Đức Giêsu đầy thuyết phục và hùng biện. Người nói với một cách thức thu hút. (2) Cách nói này đề cập đến quyền năng đằng sau lời nói. Họ ngạc nhiên về những lời kéo theo quyền năng ân sủng của Chúa. Dân chúng xem lời của Đức Giêsu đầy ân sủng của Chúa khi Người trình bày thông điệp cứu độ. (3) Cách nói này đề cập đến nội dung của thông điệp. Họ ngạc nhiên về những lời về ân sủng. Lời Đức Giêsu nói về ân sủng của Chúa, diễn tả công việc ân sủng của Chúa[3].

 

4.     Con ông Giuse: Câu hỏi “anh ấy không phải con trai của ông Giuse đó sao?” là một câu hỏi tu từ với câu trả lời khẳng định (đúng ông ấy là con trai của ông Giuse). Đây là một nghi vấn về sự chênh lệch giữa những lời giảng của Đức Giêsu và địa vị của Người trong mắt những người đồng hương. Dĩ nhiên, họ không có ý khinh dể ông Giuse cho bằng muốn cho thấy rằng họ biết rõ gia đình của ông Giuse và biết rõ Đức Giêsu từ nhỏ. Đối với họ, Đức Giêsu vốn có một địa vị khiêm tốn, bình thường, nhưng bỗng chốc biến thành một người khác[4]. Điều này làm cho họ khó chấp nhận được. Trong Tin Mừng Máccô, dân chúng gọi Đức Giêsu là “người thợ mộc”, con của bà Maria[5], và họ còn có thể liệt kê rành mạch tên gọi những anh em của Đức Giêsu nữa (Giacôbê, Giôxết, Giuđa, Simôn). Họ còn biết chị em Đức Giêsu là chị em lối xóm của họ. Nghĩa là, Đức Giêsu chỉ là người lao động bình thường và họ biết rõ tông ty họ hàng của Người. Chính vì thế, “họ vấp ngã vì Người” (Mc 6,3-4). Tác giả Mátthêu còn thêm vào câu hỏi về nguồn gốc quyền năng của Đức Giêsu trước diễn tả về sự vấp ngã của dân chúng: “Vậy, bởi đâu ông ta được như thế, và họ vấp ngã vì Người” (Mt 13,56-57).

 

5.     Bà góa Xarépta, Siđonos: Hai ví dụ về hai phép lạ của hai vị ngôn sứ lẫy lừng trong thời Cựu Ước chỉ có trong Tin Mừng Luca. Khác với Đức Giêsu của hai tác giả Nhất Lãm còn lại, Đức Giêsu của tác giả Luca khẳng định “không một ngôn sứ nào được chào đón tại quê hương mình” (Đức Giêsu của Mt và Mc nói: “Ngôn sứ có bị xem thường thì chỉ ở trên quê hương mình, giữa những bà con thân thuộc” (Mt 13, 57; Mc 6, 4). Thêm vào đó, Người kể hai ví dụ cho thấy những ngôn sứ bị chối từ trên quê hương của mình và cũng ngụ ý rằng những người ngoại được đón nhận hoa trái tốt đẹp của vị ngôn sứ[6]. Độc giả đã từng nghe nói đến Đấng Mêsiah là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại” (Lc 2, 32) và “rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3, 6). Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên những nhân vật Do Thái trong trình thuật nghe về điều này[7]. Siđonos cùng với Tyros là hai thành phố hàng đầu thuộc miền biển (Phoenexia), thuộc lãnh thổ nước Lebanon ngày nay. Địa danh này được nhắc đến thường xuyên trong các sách ngôn sứ, thường nối kết với Tyros (Is 23,2.4.12, Gr 25, 22; Ed 28,21-22; Ge 4, 4; Dcr 9, 2). Dân chúng ở Tyros và Xiđonos từng kéo đến nghe Đức Giêsu rao giảng (Mc 3, 8). Đức Giêsu có cái nhìn tích cực đối với thành Tyros và Xiđonos khi Người so sánh chúng với các thành của người Do Thái Khorazin và Betsaida, vì những thành của Do Thái đã không hoán cải khi nghe lời Đức Giêsu rao giảng (Mt 11,21-22). Tyros cũng là nơi Đức Giêsu đã trừ quỷ cho con gái của người phụ nữ gốc dân ngoại Phoenexia có đức tin mạnh mẽ (Mc 7,24-30; Mt 15,21-28). Thánh Phaolô cũng đến rao giảng nơi đây (Cv 27, 3). Câu chuyện thứ nhất Đức Giêsu nhắc đến là một trong những phép lạ mà ngôn sứ Êlias đã thực hiện. Trong phép lạ này, vị ngôn sứ được Chúa chỉ thị đi đến thành Xarépta, vào thời hạn hán và nguồn nước cạn khô. Ở đó, ông đã gặp một bà góa trong cơn khốn cùng. Bà chỉ còn chút dầu trong vò, và một nắm bột trong hũ, chỉ đủ cho bà và con bà ăn lần cuối và chết. Ngôn sứ xin bà làm cho ông một chiếc bánh nhỏ và hứa rằng: “Hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ chẳng cạn cho đến ngày Chúa cho mưa xuống trên mặt đất”. Bà ấy đã tin vào lời ngôn sứ và lời hứa ấy đã trở thành sự thật (x. 1 V 17,7-16). Sau đó, ngôn sứ còn làm cho con trai của bà được sống lại (x. 1 V 17,17-24). Cuối cùng, bà đã tuyên xưng rằng: “Bây giờ tôi biết ông là người của Thiên Chúa và lời Chúa do miệng ông nói ra là đúng”. Khi kể lại câu chuyện này, Đức Giêsu có thể ngụ ý rằng, sở dĩ ngôn sứ Êlias đã không được sai đến với con cái Ítrael mà với một người ngoại vì họ thiếu niềm tin vào ông. Trong bối cảnh này, có thể hiểu rằng người Ítrael ngày xưa là hình ảnh của người Nadarét ngày nay, những người đang đặt nghi vấn về nguồn gốc của Đức Giêsu và không tin vào Người.

 

6.     Ông Naaman, người Xyros: Câu chuyện thứ hai là một trong những phép lạ nổi tiếng do ngôn sứ Êlisaios, môn đệ của ngôn sứ Êlias, thực hiện được ghi lại trong sách các vua quyển thứ hai (2 V 5,1-19). Ông Naaman, tướng chỉ huy quân đội của vua Aram, bị bệnh phong cùi. Nhờ cô bé giúp việc người Ítrael mách nước, ông đã đến xin ngôn sứ Êlisaios chữa bệnh. Vị ngôn sứ bảo ông đi “tắm bảy lần trong sông” Giorđan thì được khỏi. Lúc đầu ông hoài nghi lời của vị ngôn sứ nhưng vì lời khuyên của các đầy tớ, nên ông làm theo và được khỏi bệnh hoàn toàn. Cuối cùng, ông tuyên xưng rằng: “Nay tôi biết rằng trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa ngoại trừ ở Ítrael” (2 V 5, 15). Tương tự như câu chuyện trước, niềm tin đơn sơ của một người ngoại đã mang đến sự chữa lành. Niềm tin này đối lại với sự kém tin của những người đồng hương Nadarét khiến Đức Giêsu không thể làm dấu lạ nào.

---Còn tiếp---

Lm. Joseph Phạm Duy Thạch SVD
Nguồn: https://josephpham-horizon.blogspot.com/2022/01/vi-ngon-su-bi-nguoi-ong-huong-loai-bo.html (Cập nhật ngày 18/2/2025)


[1] X. J.P.D. Thạch, “Sứ Vụ của Đấng Mêsiah Ngôn Sứ. Chú Giải Tin Mừng Chúa Nhật III TN C (Lc 1,1-4; 4,14-21)” [LỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: SỨ VỤ CỦA ĐẤNG MÊSIAH NGÔN SỨ. Chú giải Tin Mừng Chúa Nhật III TN C (Lc 1,1-4; 4,14-21) (josephpham-horizon.blogspot.com)].

[2] J.A. Fitzmyer, The Gospel According to Luke I-IX. Introduction, Translation, and Notes (New Haven – London 2008) 534.

[3] R.C. Blight, An Exegetical Summary of Luke 1-11 (Dallas 2008) 166.

[4] J. Nolland, Luke 1:1-9:20 (WBC; Dallas 2002) XXXV A, 199.

[5] Trong Mt, người ta gọi Đức Giêsu là con của người thợ mộc và mẹ của Người là Maria (Mt 13,55).

[6] “These verses are frequently understood to be picking up on the prophetic identity of Jesus in v 24. So they are said (i) to give examples of rejection of prophets (Lagrange, 144; Geldenhuys, 168); (ii) to show that the consequence of rejecting a prophet is that others will get the benefit of his ministry (Ellis, 98; Rengstorf, 68; and cf. Schlatter, Markus und Lukas, 204); or (iii) to make the point that, treated like a prophet in one respect, i.e., rejection, Jesus will behave like a prophet in another respect, i.e., benefiting outsiders by his ministry (Plummer, 127)” (J. Nolland, Luke 1:1-9:20, 200).

[7] L.T. Johnson, The Gospel of Luke (SP 3; Collegeville 1991) 82.

zalo
zalo