Ngày tháng: 22/02/2025
Đang truy cập: 144

Chúa Nhật IV Thường Niên - Năm C (2/2)

VỊ NGÔN SỨ BỊ NGƯỜI ĐỒNG HƯƠNG LOẠI BỎ.
Chú Giải Tin Mừng CN IV TN C (Lc 4,21-30)

7.     Đầy phẫn nộ: Sau hai câu chuyện Đức Giêsu kể đầy ẩn ý, dân làng Nadarét phản ứng bằng một loạt các hành động, khởi đầu bằng cảm xúc phẫn nộ. Danh từ “θυμός” diễn tả một sự giận dữ ở mức độ cao nhất của con người (phẫn nộ, giận điên lên). Danh từ này đi kèm với động từ “lấp đầy” ở thể bị động, “đầy phẫn nộ”, nghĩa là cơn giận lấp đầy tâm hồn và khống chế con người, để rồi, những hành động sau đó phát xuất từ cơn giận này. Họ “giận điên lên” vì họ biết rằng Đức Giêsu ngụ ý họ tệ hơn những bà góa vùng Phoenexi và những người bệnh phong cùi xứ Xyros[8]. Thực tế, Đức Giêsu ngụ ý rằng có lẽ lời rao giảng của Người có hiệu quả tích cực hơn giữa những người ngoại hơn là với những người đồng hương, những người bắt bớ các ngôn sứ thời xưa[9]. Tính từ “tất cả” được dùng ở số nhiều diễn tả sự đồng lòng tuyệt đối trong sự giận dữ, cũng như loạt hành động sau đó, của tất cả mọi người, không trừ một ai.

8.     Đứng dậy, trục xuất, dẫn lên đỉnh núi, ném xuống: Luca là tác giả Nhất Lãm duy nhất đẩy sự chối từ Đấng Mêsiah của dân làng Nadarét lên mức cao nhất. Hai tác giả Tin Mừng Nhất Lãm còn lại chỉ cho thấy rằng họ không tin, nên Người không thể làm những dấu lạ ở đó, như vẫn làm ở những nơi khác (Mc 6, 5; Mt 13, 58). Ngược lại, tác giả Luca cho thấy dường như họ muốn thủ tiêu Người[10]. Đây là loạt động từ rất mạnh diễn tả một sự loại trừ triệt để. Động từ “trục xuất” thường được dùng để diễn tả hành động trừ quỷ: Đức Giêsu “trục xuất quỷ” bằng một lời (Mt 8, 16); “Người chữa lành các bệnh nhân với đủ mọi chứng bệnh và trục xuất nhiều quỷ” (Mc 1, 34). Đây cũng là động từ diễn tả sự loại trừ của những tá điền dành cho người con duy nhất của ông chủ vườn nho: “Họ túm lấy cậu, giết chết và quăng ra khỏi vườn nho” (Mc 12, 8, Mt 21, 39; Lc 20, 15). Hình ảnh người con duy nhất bị giết chết và quăng ra khỏi vườn nho trong dụ ngôn được gọi là “những tá điền sát nhân” là hình ảnh tượng trưng cho chính Đức Giêsu, Con Một của Thiên Chúa. Tác giả Tin Mừng thứ tư cũng dùng động từ này để diễn tả hành động của “những người Do Thái” đối với anh mù từ thuở mới sinh được chữa lành: Họ nói: ‘Anh sinh ra trong tội lỗi mà muốn dạy chúng tôi sao?’ rồi họ trục xuất anh ra ngoài (Ga 9,34.35). Trong bối cảnh này, những người đồng hương Nadarét không những đuổi Đức Giêsu ra khỏi hội đường, khỏi thành, như “trục xuất” quỷ, họ còn dẫn Người đến bờ núi[11] để “ném Người xuống”. Hành động này cho thấy cơn “phẫn nộ” của họ đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát của họ. Trục xuất Đức Giêsu thôi thì không đủ. Họ phải tiêu diệt Người thì mới vui lòng, hả dạ. Đó là hình ảnh tiên trưng cho vụ án Đức Giêsu sau này. Những kinh sư và thượng tế không chỉ muốn chống đối, thù ghét Đức Giêsu, họ còn lên án Người cho đến chết[12].

9.     Băng qua giữa họ… tiếp tục lên đường: Động từ “διέρχομαι” (dierkhomai) là một động từ ghép gồm giới từ “dia” (xuyên qua) và động từ “erkhomai” (đi bộ), có nghĩa là “đi xuyên qua”, “băng qua giữa”. Bằng cách nào Đức Giêsu bang qua giữa đám đông giận dữ? Có hai cách giải thích. Nhiều tác giả xem đó như là một phép lạ (A.Plummer [1896]; H.A.W. Meyer [1884]; J.M. Creed [1930]). Tuy nhiên, có không ít tác giả gần đây hơn cho rằng không nhất thiết phải hiểu đó là một phép lạ. Đó có thể là Đức Giêsu giải thoát chính mình, rồi trước cái nhìn của dân chúng, Người đi qua giữa họ mà không ai dám đụng chạm đến Người (J. Reiline – J.L. Swellengrebel [1971]), hay Người chỉ đơn giản đi qua đám đông và họ không cố gắng ngăn cản Người (R.G. Bratcher [1982])[13]. J. Fitzmyer cũng cho rằng không cần phải giải thích nó theo kiểu phép lạ. Ông lý giải rằng chủ ý của tác giả là rõ ràng: Sự đối nghịch với Đức Giêsu là tàn ác, nhưng chưa đến lúc những người chống đối thành công[14]. Hơn nữa, trong câu chuyện của Luca, Đức Giêsu cần tẩu thoát vì Người phải rao giảng Tin Mừng cho các vùng khác[15].

Động từ “lên đường” được chia ở thì chưa hoàn thành, diễn tả một hành động tiếp diễn hoặc lặp đi lặp lại: “Người cứ lên đường”, hoặc “Người tiếp tục hành trình”. Tác giả J. Fitzmyer chọn cách hiểu là “Người đã tiếp tục hành trình của mình” và giải thích rằng trong bối cảnh này động từ này mang sắc thái một hành trình tiến về phía trước trên hành trình của Người, một “hành trình mà cuối cùng dẫn Người lên Giêrusalem, thành phố liên quan đến số phận của Người (x. 4, 43; 7,6.11; 9,51.52.53.56.57;13, 33; 17, 11; 22,22.39; 24, 28)[16].

Bình luận tổng quát

Sau khi giới thiệu tổng quát về sứ vụ giảng dạy của Đức Giêsu lại vùng Galilaia, tác giả Luca kể câu chuyện về một lần giảng dạy đầu tiên của Đức Giêsu tại quê nhà Nadarét. Như một linh mục trẻ vừa được thụ phong Đức Giêsu về quê nhà để tạ ơn và giảng dạy. Người bộc lộ căn tính của mình và kế hoạch yêu thương mà Người sẽ thi hành với những người đồng hương. Người có căn tính Mêsiah ngôn sứ vì đã được Thiên Chúa xức dầu. Người thông báo rằng Người thi hành sứ vụ như lời ngôn sứ Isaiah đã nói về Người: Loan Tin Vui cho người nghèo, giải thoát tù nhân, mang ánh sáng cho người mù, giải cứu những ai cùng khổ và công bố một năm hồng ân, năm toàn xá của Thiên Chúa. Những người đồng hương tuy hết lòng tán thành “lời ân sủng” thốt ra từ miệng Người, nhưng họ lại kinh ngạc và nghi ngờ về thân phận và căn tính thật sự của Người. Họ không thể dung hòa giữa căn tính Mêsiah nơi Người và thân phận chàng thanh niên Giêsu con ông Giuse đã từng sinh sống và lớn lên giữa họ ngày nào. Khi kể lại hai ví dụ về hai phép lạ của hai ngôn sứ tiêu biểu của thời Cựu Ước, Đức Giêsu muốn ngụ ý hai điều: (i) Sự chối từ của những người đồng hương dành cho vị ngôn sứ của Chúa; và (ii) Sứ vụ mang ơn cứu độ đến với dân ngoại của ngôn sứ Giêsu. Đức Giêsu muốn cho thấy rằng cho dù vị ngôn sứ bị chối từ trên chính quê hương của mình, nhưng Người sẽ tiếp tục hành trình đi về phía dân ngoại. Hành trình này cũng được các tông đồ tiếp nối sau này, đặc biệt là những hành trình truyền giảng Tin Mừng của thánh Phaolô, vị tông đồ của dân ngoại (Cv 16 – 22). Vùng đất Siđonos tiếp tục là những nơi chốn Đức Giêsu đi đến, rao giảng và chữa lành (Mc 3, 8; 7,24.31). Xứ Xyros cũng tiếp tục là nơi được Đức Giêsu hướng về (Mt 4, 24: Mc 7, 26). Đây cũng là những miền đất mà các môn đệ của Đức Giêsu tiếp tục đặt chân đến trên hành trình truyền giáo của mình (Cv 15,23.41; 18, 18, 20, 3; Cv 27, 3). Sự loại trừ của những người đồng hương đã được tác giả Luca đẩy lên mức cao nhất. Họ trục xuất Người ra khỏi thành, và đưa Người lên mép núi để đẩy Người xuống, nhưng Người đã thoát khỏi tay họ và tiếp tục hành trình mang Tin Vui cứu độ của mình. Trong khi Người tiếp tục thi ân giáng phúc cho dân chúng thì sự chối từ, ghét bỏ của những người đồng hương vẫn tiếp diễn nơi những lãnh đạo Do Thái và cuối cùng họ cũng giết chết Người. Đó là thời điểm mà tác giả Luca gọi là “ngày của sự lên trời của Đức Giêsu được hoàn tất” (Lc 9, 51). Vào ngày ấy, “Người nhất quyết tiến lên Giêrusalem”, nghĩa là, tiến về tử địa, và tiến ra pháp trường. Cái chết của Đức Giêsu dù bề ngoài là kế hoạch của những người thù ghét chống đối, nhưng đó lại là kế hoạch Thiên Chúa trao ban hồng ân cứu độ cách trọn vẹn cho con người. Những người đồng hương dùng bạo lực để loại trừ Người, nhưng Đấng Mêsiah lại dùng chính hành vi bạo lực của họ để mặc khải mầu nhiệm tình yêu cao cả của Đấng “chết cho người mình yêu”. Trong khi, kẻ thù muốn tìm mọi cách để loại trừ Người, Người vẫn đáp lại bằng kế hoạch cứu độ trọn vẹn. Kết cục của lần rao giảng tại quê nhà Nadarét đã hé mở kết cục của toàn sứ vụ rao giảng của Đấng Mêsiah ngôn sứ. Người được xức dầu để mang Tin Mừng cho muôn người, trước hết là những người đồng hương (Nadarét, Ítrael) – họ bắt bớ, loại trừ Người, nhưng không thể ngăn cản sứ vụ của Người thực hiện trên nhiều người khác, nhiều nơi khác – Người sẽ bị giết chết nhưng cái chết ấy không nằm ngoài kế hoạch yêu thương cứu độ của Người được hoàn tất đúng thời và đúng buổi. Số phận và sứ vụ của Đức Giêsu, cũng chính là số phận và sứ vụ của các môn đệ và của các tín hữu qua mọi thời đại. Đức Giêsu vẫn chưa ngừng thi hành sứ vụ loan Tin Mừng cứu độ và Người vẫn bị bắt bớ, loại trừ cho đến ngày nay bởi vì Người luôn đồng hóa chính mình với các tín hữu bị bách hại, như Người đã công bố với Saolô: “Ta chính là kẻ mà Ngươi đang bắt bớ” (Cv 9,4-5).

Cho đến nay, vẫn có nhiều hình thức chối từ Tin Mừng cứu độ của Đấng Mêsiah. Nhiều nơi trên thế giới các kitô hữu vẫn bị bách hại vì đức tin của mình. Nhiều tín hữu đã phải trả giá bằng cái chết cho niềm tin của mình. Theo nguồn tin Công Giáo Fides, trong năm 2021 có ít nhất 22 nhà truyền giáo bị giết chết trong đó có 13 linh mục, 3 tu sĩ và 6 giáo dân, trải rộng trong bốn châu lục: Châu Phi, Châu Mỹ, Châu Á và Châu Âu. Từ năm 2000 đến 2020 đã có 536 nhà truyền giáo bị giết trên toàn thế giới. Giáo hội luôn phải đương đầu với những cuộc bách hại thảm khốc bởi những thế lực thù ghét ngay từ những thế kỷ đầu tiên. Ngày nay, còn có những cơn bách hại vô hình đang lôi kéo các tín hữu dần xa giáo huấn của Chúa Kitô. Cơn đại dịch Covid như một cơn lốc xoáy làm bật gốc những cây đức tin còn non yếu trong lòng Giáo Hội. Sau những đợt giãn cách, các tín hữu ở nhiều giáo xứ đã cảm thấy ngại ngùng đến thánh đường. Có thể nói rằng, sự cấm đoán Thánh Lễ trong thời gian giãn cách xã hội làm cho một số kitô hữu trở nên khao khát Chúa hơn và trưởng thành hơn trong việc sống đức tin. Tuy nhiên, tiếc thay, nó cũng làm cho đa phần tín hữu cảm thấy thoải mái, tự do hơn vì không phải đi Lễ, và tham dự các hoạt động đạo đức nữa. Chính vì thế, bầy chiên lạc ngày càng thêm đông số trong khi đàn chiên ngoan thì ngày một thưa thớt. Người ta không chối Chúa cách công khai nhưng cũng không mặn mà gì với Chúa nữa. Khi không còn tin vào Chúa nữa, các tín hữu trở nên xa lạ với những giá trị Tin Mừng và lối sống của Đức Giêsu. Một khi không lấy Chúa làm cùng đích, những mục tiêu của cuộc sống chỉ còn giới hạn vào tiền tài danh vọng. Niềm hạnh phúc, niềm vui được Chúa yêu bị thay bằng sự hưởng thụ những thú vui thể xác hằng ngày. Dẫu vậy, Đức Giêsu vẫn không bỏ cuộc. Người vẫn hoạt động nơi các ngôn sứ nhiệt thành của thời đại và Tin Mừng Nước Thiên Chúa vẫn được loan truyền khắp nơi.

---Hết---

Lm. Joseph Phạm Duy Thạch SVD
Nguồn: https://josephpham-horizon.blogspot.com/2022/01/vi-ngon-su-bi-nguoi-ong-huong-loai-bo.html (Cập nhật ngày 18/2/2025)


[8] D.L. Bock, Luke 1:1 – 9,50 (BECNT; Grand Rapids 1996) 419; W. Hendrikson. Exposition of the Gospel According to Luke (NTC, Grand Rapids 1978) 258.

[9] J.A. Fitzmyer, The Gospel According to Luke I-IX. Introduction, Translation, and Notes (New Haven – London 2008) 538.

[10] “The response scene here is evocative of Luke’s account of Stephen’s death (Acts 7:54–60; George, BVC 59 [1964] 25). Both Stephen and Jesus accuse their hearers of rejecting God’s prophets (Acts 7:52; Luke 4:24) and identify them as outsiders to what God is presently doing” (J. Nolland, Luke 1:1-9:20, 201).

[11]“Modern Nazareth is a small village built on a slope and ringed about by hills, but it is impossible to point to any such spot as that envisaged in this sentence. Since the ninth century a tradition has associated the Lucan verse with a place about three kms. SE of Nazareth (Jebel el-Kafze), but this is also contested. Creed (The Gospel, 69) regards it as a “mistake to attempt topographical verification.” It is probably only another instance of Luke’s vague awareness of Palestinian geography” (Ibid.).

[12] “This crucial statement in Luke’s account foreshadows the locale of the crucifixion itself” (Ibid.)

[13] R.C. Blight, An Exegetical Summary of Luke 1-11 (Dallas 2008) 172.

[14] “Most likely, we have a rather Johannine indication that Jesus’ hour had not yet come (John 7:30; 8:59; 10:31, 39; 11:8–9; 13:30 and cf. Luke 22:3 and 53; Reicke, “Jesus in Nazareth,” 51)” (J. Nolland, Luke 1:1-9:20, 201).

[15] J.A. Fitzmyer, The Gospel According to Luke I-IX, 539.

[16] Ibid.

zalo
zalo