CÁI PHÚC, CÁI HỌA CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ.
Chú Giải Tin Mừng Chúa Nhật VI TN C
(Lc 6,17.20-26)
5. Những người đói – những kẻ no đầy: Cặp nghịch lý “phúc-hoạ” thứ hai như muốn cụ thể hoá hơn cái nghèo. Những người đói dĩ nhiên cũng là những người nghèo[10]. Trong khi Đức Giêsu của Mátthêu nói về sự “đói” và “khát” sự công chính (Mt 5,6)[11], tác giả Luca dường như chỉ muốn nói đến cơn đói thể lý thật sự (những người đang đói). Những người bây giờ đang đói sẽ được no đủ trong tương lai. Đức Giêsu đã trải qua kinh nghiệm đói (Lc 4, 2). Ông Ladarô ở trong bi kịch đói kém cho đến chết mà không ai cho ăn (Lc 16, 21). Đức Maria mô tả mối phúc này torng bài magnificat: “Người nghèo, Ngài đổ đầy những điều thiện hảo” (Lc 1, 53). Có thể tác giả Luca muốn nói đến một sự no thoả trong bữa tiệc Nước Trời, vì người nghèo sẽ được làm công dân Nước Trời và họ sẽ được no thỏa trong bữa tiệc Nước Trời. Đó là cái no thỏa của anh Ladarô, khi được ở trong lòng tổ phụ Ápraham.
6. Những người đang khóc – những kẻ đang cười[12]: Danh xưng “những người đang khóc” (οἱ κλαίοντες) diễn tả thân phận của những con người cùng khổ, khiến họ phải biến thành những người luôn luôn khóc. Đó là số phận những người con Chúa bị bách hại, những người sống trong cảnh lầm than, cơ hàn nhưng luôn biết đặt niềm tin tưởng nơi Chúa. Tác giả Mátthêu nói đến tiếng khóc của bà Rakhen, tượng trưng cho tiếng khóc của bao bà mẹ khóc thương con mình vì bị vua Erodes giết hại (Mt 2, 18). Tin Mừng Máccô kể về tiếng khóc của người nhà trước sự ra đi của con gái ông Giaia (Mc 5,38-39; Lc 8, 52). Đó cũng có thể là những người đang khóc cho tình yêu, thương xót người thân qua đời. Cô Maria đã khóc thương em mình là Ladarô. Những người Do thái đi với cô cũng khóc, còn Đức Giêsu thì thổn thức trong lòng và xao xuyến (Ga 11, 33). Đức Giêsu khóc thương thành Giêrusalem vì nó đã không nhận biết Người (Lc 19, 41). Đó cũng có thể là những giọt nước mắt hối hận vì những lỗi lầm đã qua. Tin Mừng Nhất Lãm ghi lại tiếng khóc thảm thiết của ông Phêrô sau khi chối Chúa ba lần (Lc 22, 62; Mc 14, 72). Tương tự, người phụ nữ tội lỗi đã mạo muội tiến vào bữa tiệc, khóc ướt chân Chúa, lấy tóc mình mà lau và đã được tha thứ lỗi lầm (Lc 7, 38). “Đau buồn và khóc lóc” cũng là hành động của những người “đã từng ở với Đức Giêsu” trước cái chết của Người (Mc 16, 10); của những người phụ nữ vừa “đấm ngực vửa than khóc Người” trong hành trỉnh khổ nạn của Người (Lc 23,27-28); của bà Maria Mácđala bên mộ Chúa (Ga 20,11.13.15); của những người sùng đạo dành cho ông Stêphanô (Cv 8, 2). Đó là những tiếng khóc đau buồn và thất vọng vì đánh mất Chúa, thương người tử đạo. Đức Giêsu đã tiền báo về tiếng khóc này khi nói rằng “sẽ đến giờ chàng rể bị đem đi, lúc đó họ mới ăn chay”, nghĩa là than khóc (Mt 9, 15) hay “anh em sẽ khóc lóc than van còn thế gian sẽ vui mừng; anh em sẽ lo buồn nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (Ga 16, 20). Những tiếng khóc thương cho người thân, khóc cho số phận bị bách hại, khóc vì những lỗi lầm của mình bây giờ sẽ giúp của những người tin vào Chúa thoát khỏi “sự khóc lóc nghiến răng” (Lc 13, 28; Mt 8, 12; 13,42.50; 22, 13; 24, 51; 25, 30) vì phải xa cách Chúa muôn đời. Ngược lại, những người đang cười hả hê vì gây ra nổi đau cho người khác, hay là cười dửng dung trước nỗi đau của người khác, hoặc cười trong sự hưởng thụ, lạc thú, “làm điều bất chính”, mà không biết khóc cho lỗi lầm của mình (Lc 13, 27). Những người này sẽ trở thành những người “khóc lóc và nghiến răng” (ὁ κλαυθμὸς καὶ ὁ βρυγμὸς τῶν ὀδόντων) ở đời sau.
7. Những người bị bách hại – những kẻ được ca tụng: Những sự bách hại mà các môn đệ phải chịu được liệt kê là “bị người ta oán ghét, loại trừ, sỉ vả và bị xóa tên như những người xấu xa”. Thánh Luca ghi lại nhiều chi tiết hơn về những hình thức bách hại: Bị bắt, ngược đãi, nộp cho thượng hội đồng, bỏ tù, bị điệu ra trước mặt quan quyền và vua chúa, bị cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp, bị giết chết (x. Lc 21,12-17). Các môn đệ trong cơn bách hại được trong bối cảnh này được ví như những vị ngôn sứ. Quả vậy, những vị ngôn sứ trong thời Cựu Ước đã bị bách hại vì trung thành bảo vệ giáo huấn của Chúa (x. câu chuyện của ngôn sứ Êlia trong 1 V 18 – 19). Hơn hết, Đức Giêsu là một vị ngôn sứ bị bách hại vì những giá trị Tin Mừng mà Người rao giảng. Ông Gioan Tẩy giả, những người dọn đường cho Người cũng đã đạt đến đỉnh cao của sứ vụ bằng cách chết cho công lý và sự thật (Mt 14,1-12; Mc 6,17-29). Thực tế, tất cả các môn đệ đều bị bách hại và hầu hết họ đều chịu tử đạo, bắt đầu từ thánh Stêphanô (Cv 8, 55-60). Ông Giacôbê là Tông Đồ đầu tiên được phúc tử đạo (Cv 12, 2)[13].
Đối lại với những người bị bách hại là những người đời được ca tụng (nghĩa đen: Người đời nói tốt)[14]. Những người này được ví như những ngôn sứ giả. Ngôn sứ giả là những người dẫn dân Chúa đi lầm đường lạc lối và là những người tìm hư danh, lợi lộc cho riêng mình. Ngôn sứ Giêsu luôn làm vinh danh Thiên Chúa. Người làm phép lạ để Thiên Chúa được chúc tục, ngợi ca. Người không tìm vinh quang cho riêng mình. Sau phép lạ chữa lành người bại liệt, dân chúng “sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người được quyền năng như thế” (Mt 9, 8; Mc 2, 12; Lc 5,25.26; xem thêm Mt 15, 31; Lc 7, 16; 13, 13). Trong câu chuyện “mười người phong hủi” (chỉ có trong Tin Mừng Luca), khi thấy một người khỏi bệnh trở lại “lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa”, Đức Giêsu hỏi rằng “không phải mười người đều được sạch sao. Thế thì, chín người kia đâu, sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa?” (Lc 17,15.17). Điều đó chứng tỏ rằng Đức Giêsu cũng muốn hướng dân chúng, đặc biệt là những người được chữa lành lên Chúa, chứ không phải làm cho họ hướng về Người. Những cụm từ như “nhiều phần thưởng trên trời” (dành cho những ngôn sứ thật), “được mọi người ca ngợi” (dành cho ngôn sứ giả), làm cho người ta liên tưởng đến lời dạy của Đức Giêsu liên quan đến cầu nguyện, ăn chay, và trao ban (bố thí). Những người “đạo đức giả”, vì thích phô trương để tìm sự tán thưởng của người đời, nên “họ nhân được phần thưởng rồi” (ἀπέχουσιν τὸν μισθὸν αὐτῶν, Mt 6,2.5.16). Ngược lại, những người môn đệ của Chúa, khi làm tất cả mọi việc lành trong sự kín đáo, người đời không biết, không ca tụng, thì lại được Chúa Cha “trả lại cho” (Mt 6,4.6.18).
Bình luận tổng quát
Sau khi cầu nguyện và tuyển chọn Mười Hai Tông Đồ (Lc 6,12-16), Đức Giêsu bắt đầu giảng dạy các ông những điều tâm huyết và quan trọng cho cuộc đời các ông. Trong khi Đức Giêsu của tác giả Mátthêu lên núi và ngồi giảng như một Môsê mới, Đức Giêsu của tác giả Luca lại từ trên núi đi xuống đất bằng và đứng giảng như một diễn giả bình dân, giữa dân chúng. Nếu như Đức Giêsu của Mátthêu nói đến tám mối phúc, thì Đức Giêsu của tác giả Luca chỉ nói đến bốn mối phúc, nhưng kèm theo bốn mối họa. Hơn nữa, trong Luca, Đức Giêsu dùng ngôi thứ hai số nhiều, như muốn trực tiếp nói đến các Tông Đồ trước tiên (phúc cho những ai … vì anh em sẽ/ của anh em…), còn Đức Giêsu của tác giả Mátthêu lại dùng đại từ ngôi thứ ba số nhiều (phúc cho những ai… vì họ sẽ/ của họ). Đức Giêsu nhắm trực tiếp đến các Tông Đồ và những hoàn cảnh thực tế của họ. Trước tiên, họ là những người “nghèo” vì họ đã từ bỏ mọi sự, của cải, nhà cửa, cha mẹ, anh chị em, để theo Chúa. Đó là một cuộc hoán cải triệt để sau khi nghe theo lời mời gọi của Đức Giêsu: “Thời kỳ đã mãn. Nước Thiên Chúa đã đến gần, hãy hoán cải và Tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 15; Mt 4, 17). Vì họ chấp nhận bỏ tất cả mọi sự để theo Chúa rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, nên “Nước Thiên Chúa” chính là phần thưởng của họ. Đây là niềm an ủi lớn lao dành cho những người nghèo trong xã hội. Đó cũng là mục tiêu và phần thưởng lơn lao nhất dành cho những ai chấp nhận sống nghèo, không bận tâm vật chất để dành thời gian theo đuổi những giá trị Tin Mừng. Phần thưởng này trước tiên dành cho các Tông Đồ, nhưng nó cũng được trao cho những ai tin theo Chúa Kitô. Tương tự như những người nghèo, những người đói cơm, thiếu áo cũng được Chúa chăm sóc giữ gìn. Đó là những người không bận tâm cho “mạng sống lấy gì mà ăn”, hay lo lắng cho “thân thể lấy gì mà mặc”, nhưng lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người (Lc 12, 22; Mt 6, 25). Cái no đủ của những người đói là cái no đủ vì được ở với Chúa đời này, và nhất là hạnh phúc viên mãn đời sau. Hình ảnh của ông Ladarô ở trong lòng tổ phụ Ápraham (Lc 16, 23) là một minh họa cụ thể cho sự no đầy của người nghèo. Những người theo Chúa là những ngưới biết khóc thương người khác và khóc cho những lỗi lầm thiếu xót của mình để được Chúa ban cho niềm vui trong tương lai. Số phận của những người môn đệ của Đức Giêsu cũng giống như số phận của những người ngôn sứ thật xưa nay, và nhất là, số phận của chính thầy Giêsu. Họ sẽ bị bắt bớ, loại trừ, đánh đập, cầm tù và thậm chí bị giết chết, nhưng họ sẽ được nhiều phần thưởng trên Nước Trời. Chung quy lại, phần thưởng Nước Thiên Chúa bao gồm tất cả mọi phần thưởng, vì khi ở trong Nước Thiên Chúa, người ta được no thỏa, được vui cười thỏa thích và có những phúc lợi như mình mong ước, nhưng có lẽ không phải tiền tài và quyền chức.
Ngược lại, những người giàu có, một khi thỏa mãn với những kho tàng vật chất của mình, chè chén say sưa, mặc toàn lụa là gấm vóc mà không bận tâm đến những giá trị Tin Mừng, dửng dung trước những mảnh đời bất hạnh, thì chắc chắn sẽ không được hưởng “Nước Trời” cùng những niềm vui vĩnh cửu trong đó. Những người vui cười trước nỗi đau của kẻ khác, hay vui thỏa với những thành công hiện tại, cười trong lạc thú, và làm điều bất chính ở đời này, sẽ phải trở thành những người “khóc lóc và nghiến răng” trong sự sống đời sau. Những người ngôn sứ giả, những người chỉ biết tìm sự tán thưởng, ca ngợi của người khác, không dám đón nhận những đau khổ vì sứ vụ thì sẽ không có phần thưởng nào trên quê trời nữa. Chung quy lại, những người giàu, người vui cười, người thích được ca tụng sẽ không được ở trong Nước Thiên Chúa và không được hạnh phúc đời đời với Chúa.
---Hết---
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
Nguồn: https://josephpham-horizon.blogspot.com/2022/02/cai-phuc-cai-hoa-cua-nguoi-mon-e-chu.html (Cập nhật ngày 18/02/2025)
[10] “Hunger and weeping are not to be considered as separate conditions from poverty but as characteristic manifestations of poverty” (J. Nolland, Luke 1:1-9:20, 283).
[11] “Matthew has “hunger and thirst for righteousness.” The “for righteousness” corresponds to Matthean interests and is likely to be his addition: after his narrowing to the attitudinal of the beatitude of the poor he uses the beatitude of the hungry to develop an aspect of the poor’s openness to God” (Ibid.).
[12] “Laughter” is to be understood here as the carefree expression of contentment with the success of the present. In OT Wisdom literature it is sometimes the mark of the fool (Sir 21:20; 27:13; Qoh 7:6), and the Lucan Jesus may be alluding to such an attitude” (J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke I–IX, 636-637).
[13] X. L.T. Johnson, The Gospel of Luke, 107.
[14] “Though Luke in general sets great store upon good public reputation (cf. Dupont, Béatitudes 3:89–94), he must ultimately limit its validity as a test of truth: truth lies with the persecuted rather than with those who gain public recognition” (J. Nolland, Luke 1:1-9:20, 288).