Đạo "Đức Chúa Trời" - Vai Trò Của Ngôn Ngữ Trong Tiến Trình Hội Nhập Văn Hóa – Phần 1/3
Lm. Nguyễn Ðoàn Tân, OFM.
Giới Thiệu: Ngôn Ngữ Tôn Giáo
Khi nói về Thiên Chúa, chúng ta không thể xác định hoặc bác bỏ sự hiện hữu của Người nếu chỉ dùng các biện chứng triết lý hay thần học. [1] Vì lẽ mọi ngôn ngữ dùng để cảm nghiệm và diễn đạt đức tin đều nằm trong phạm vi “tôn giáo,” với những giới hạn và qui luật khác biệt với ngôn ngữ dùng hằng ngày hoặc trong các ngành khoa học khác. Ðối với người tin vào Chúa, hai chữ “Thiên Chúa” nói đến một Ðấng Tối Cao, một Mầu nhiệm Tuyệt Ðối, toàn năng và toàn thiện mà ngôn ngữ loài người không thể diễn tả hết được. Nhưng đối với những kẻ không biết Chúa, thì hai chữ này không mang lại cho họ ý nghĩa như trên được. Do đó, ngoài phạm vi tôn giáo, mệnh đề “Thiên Chúa có thật” chỉ là một giả thuyết chưa được minh chứng. Trước khi xác định mệnh đề này đúng hay sai thì người nghe phải hiểu hai chữ “Thiên Chúa”: nói về gì và “có thật”: là có cái gì? Nếu những điều kiện này không được thỏa mãn thì mệnh đề trên đây cũng không khác gì với ”X có thật” mà chúng ta không biết “X” nói về gì, hoặc sự “có thật” của Thiên Chúa có khác gì với cái bàn hay chiếc ghế “có thật” hay không? Ví dụ sơ khởi này cho thấy có một sự khác biệt giữa cách dùng ngôn ngữ trong tôn giáo và trong văn hóa thông thường.
Nhưng làm thế nào để phân biệt văn hóa với tôn giáo? Cả hai liên hệ hay nối kết với nhau như thế nào? Paul Tillich, một thần học gia Tin Lành thời 1940-60, cho rằng mọi tôn giáo đều mặc lấy một hình thức văn hóa, và mọi văn hóa đều hàm chứa một bản chất tôn giáo. [2] Trong môi trường ngôn ngữ hiện tại, khái niệm “bản chất” và “hình thức” còn gặp nhiều khó khăn, nhất là khi bàn đến vấn đề “bản vị” của thần học. Tuy nhiên chúng ta phải công nhận là không thể có tôn giáo nếu không có văn hóa, và ngược lại, văn hóa không thể thành hình nếu không có những nền tảng đạo đức và tôn giáo duy trì nó từ đời này qua đời kia. Khi các nhà truyền giáo Tây Phương đến Việt Nam, họ không chỉ đem “bản chất” thuần túy của đạo Kitô, nhưng một đạo Kitô đã được suy diễn, truyền đạt và trưởng thành trong bối cảnh của văn hóa Tây Phương. Cũng như thế, Kitô giáo không chỉ mặc lấy một hình thức văn hóa Việt đơn thuần, nhưng một nền văn hóa phức tạp và đa dạng, nung đúc và thấm nhuần với những giá trị đạo đức và luân lý đến từ Khổng giáo, Phật giáo và Lão giáo, v.v. Vì thế, hội nhập văn hóa không phải là sự nối kết giữa “bản chất” của tôn giáo này với “hình thức” của văn hóa kia, nhưng là một tiến trình sát nhập, gia nhập và hội nhập rất phúc tạp về cách dùng ngôn ngữ tôn giáo khi hai nền văn hóa gặp gỡ nhau. [3] Cách dùng ngôn ngữ tôn giáo trong mỗi giai đoạn sẽ xác định trình độ hội nhập của mỗi giai đoạn. Chỉ khi chúng ta thấu đạt được lối dùng ngôn ngữ tôn giáo trong từng bối cảnh văn hóa thì lúc đó mới có thể nhận diện khả năng “bản vị hóa” của bối cảnh đó.
Nhận thức được tầm quan trọng của ngôn ngữ trong sự nối kết giữa tôn giáo và văn hóa, các nhà truyền giáo trước khi đến Việt Nam đều chuẩn bị học tiếng Việt rất kỹ lưỡng. Có những vị như Cha Ðắc Lộ (Alexandre de Rhodes) đã dày công nghiên cứu và dùng mẫu tự Latin để phiên âm giọng nói của người Việt, sau này được gọi là chữ Quốc Ngữ. [4] Họ muốn làm quen với ngôn từ tôn giáo thường dùng để diễn đạt đạo đức và luân lý trong văn chương, ca dao, tục ngữ, nói chung là nền văn hóa Việt Nam. Mục tiêu của họ là tìm trong văn hoá Việt những ngôn từ đặc biệt khi nói đến thì có thể đánh động đến lòng đạo đức hay đời sống luân lý của người Việt, và từ đó, có thể tạo nên một môi trường ngôn ngữ thích hợp cho việc truyền bá đức tin và rao giảng đạo mới. Cha Ðắc Lộ đã thành công trong việc tìm kiếm “môi trường ngôn ngữ” này. Mục tiêu của ngài là làm thế nào để giảng về “Deus” (God) cho một dân tộc mà chưa hề nghe đến Thiên Chúa. Ngài ghép chữ “Chúa” (người có quyền hành) và chữ “Trời” (có sẳn trong tiếng Việt) thành một cụm từ mới, “Ðức Chúa Trời” để chuyển dịch chữ “Deus” qua tiếng Việt. Từ đó, đạo mới do các cố Tây giảng sẽ được gọi là đạo “Ðức Chúa Trời.” Cái khôn ngoan của nhà truyền giáo này là ngài đã tìm được trong chữ “Trời” những nét đặt thù tiêu biểu cho luân lý và đạo đức của người Việt, và không ngần ngại dùng nó như môi trường hội nhập giúp cho đạo Chúa được phát triển tại xứ sở mới lạ này.
Ðứng về phương diện tôn giáo, có thể nói là hai từ ngữ “Deus” và “Trời” đồng nghĩa với nhau vì cả hai cùng ý chỉ đến một “Ðấng” mà chúng ta tin là Tác Giả của mọi sự vô hình và hữu hình trên trên đời này. Tuy nhiên, về phương diện ngôn ngữ, không nên vội vàng đi đến kết luận là hai từ ngữ này mang cùng một tác năng như nhau. Vì lẽ, nếu ngôn ngữ là môi trường mà từ đời này qua đời kia đã giúp tạo dựng nên văn hóa của một dân tộc, hẳn nhiên sẽ có những qui luật khác nhau điều khiển cách dùng hai từ ngữ “Trời” và “Deus.” Trong bài tiểu luận này chúng ta sẽ có dịp quan sát các lối dùng ngôn ngữ tôn giáo khác nhau. Phần đầu chúng ta sẽ phân tích ý nghĩa và tác năng của chữ “Trời” trong văn chương truyền khẩu, văn học hán nôm, thư mục lưu ký Việt Nam; phần sau sẽ tìm hiểu một số ngôn từ và khái niệm tiêu biểu về Thiên Chúa dùng trong triết thần Tây Phương. Khi so sánh hai quan điểm khác biệt này, chúng ta sẽ thấy rõ hơn vai trò của ngôn ngữ trong tiến trình hội nhập văn hóa. Từ đó chúng ta có thể thông cảm và rút tỉa một số bài học về cách biệt ngôn ngữ đức tin giữa các thế hệ người Việt Công giáo đang sống tại hải ngoại.
I. Chữ “Trời” Trong Tiếng Việt
Trong phần này chúng ta sẽ tóm lược những ý nghĩa phong phú của chữ “Trời” qua văn học bình dân và văn học hán-nôm mà nhiều học giả như Trần Phổ, Nguyễn Ðăng Thục, Nguyễn Ðổng Chi, Bùi Văn Nguyên, Thiện Ðình, Ðổ Thị Hảo, v.v., đã dày công nghiên cứu và sưu tầm.
Trước tiên, chữ “trời” là một từ ngữ rất thông dụng trong tiếng Việt. Theo cuốn Ðại Tự Ðiển Tiếng Việt [5] có ít nhất 50 cụm từ liên hệ đến chữ “trời” (trời long đất lỡ, trời xui đất khiến, trời tru đất diệt, v.v.). Tùy trường hợp, “trời” có thể dùng như là một danh từ, tĩnh từ hay thán từ. Nếu là một danh từ thì “trời” có ba ý nghĩa sau đây: (a) Khoảng không gian bao phủ trên không (“Kiếp sau xin chớ làm người, làm cây thông đứng giữa trời mà reo”), (b) Thiên nhiên, thời tiết (trở trời, trời hạn, trời bão, v.v.), (c) Lực lượng siêu nhiên sáng tạo và quyết định mọi sự (trời hành, trời phạt, v.v.). Nếu dùng như một tĩnh từ thì có hai ý nghĩa chính: (a) Hoang dại, không do con người vun trồng, nuôi dưỡng (vịt trời, cải trời, của trời cho, v.v.); (b) Một thời gian rất lâu (ba năm trời xa cách). Cuối cùng nếu dùng như một thán từ thì có các ý nghĩa như: (a) Tiếng than thở, thốt lên ngạc nhiên hay luyến tiếc (trời ơi!, quá trời!, v.v.); (b) Một ẩn dụ, biểu tượng cho cái gì quá tầm tay con người (Muốn làm trời sao? Những kẻ đội đá vá trời); (c) Tiếng dùng để chửi mắng (trời đánh trật búa! đồ trời trồng!) [6]
Nếu xét theo nguồn gốc nguyên tự thì “trời” là một từ Nôm, thuần Việt, do hai chữ Hán, “thiên” và chữ “thượng” ghép lại. [7] Từ ngữ “Trời” đồng nghĩa với một số từ các tôn giáo ngoại lai đưa vào Việt Nam: Thiên Hoàng, Thượng Thiên (Nho); Thượng Ðế, Ngọc Hoàng Thượng Ðế (Lão); Ðức Chúa Trời, Chúa Cả Trời Ðất (Thiên Chúa giáo). Các thừa sai tại Trung Hoa ở thế kỷ 17 muốn phân biệt “Thiên” (vật lý) và “thiên” (siêu nhiên) nên đã dùng “Thiên Chủ” để dịch chữ “Deus.” Trong văn chương Việt Nam, hai chữ “trời” và “thiên” được dùng thay thế nhau: cơ trời, thiên cơ, đạo trời, thiên đạo, mệnh trời, thiên mệnh. Có nhiều từ như Hoá công, Con tạo, Trẻ tạo hoá, Hồng quân, Khuôn xanh, v.v.. cũng thấy được dùng thường xuyên trong cổ văn Việt Nam.
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nổi này (Chinh Phụ)
Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán
Ðắm đuối người trên cạn mà chơi (Cung Oán)
Hồng quân với khách hồng quần
Ðã xoay đến thế còn vần chưa tha. (Kiều)
Trong đời sống hằng ngày, những tiếng “nhờ Trời” hoặc “Trời ơi, hởi Trời!” là những tiếng kêu đầu môi chót lưỡi của mọi người, bất kể lương hay giáo, trí thức hay lao động, có tín ngưỡng hay không. Trước những biến cố bất ngờ, bất khả kháng, người ta kêu Trời để nói lên lòng biết ơn và cảm phục, để than trách và cầu cứu, và nhất là kêu tự nhiên không cần phải suy nghĩ. [8]
1. “Trời” trong ca dao tục ngữ
Trong tục ngữ, ca dao “trời” thường là một hậu cảnh, làm cho tăng thêm lời hay ý đẹp:
Trời mưa cho lúa chín vàng
Cho anh đi gặt cho nàng đem cơm
Ðem thời bát sứ mâm son
Chớ đem mâm gổ anh hờn không ăn.
Nhờ Trời mưa gió thuận hòa
Nào cầy, nào cấy, trẻ già đua nhau
Vái trời đừng gió đừng mưa
Ðể trăng sáng tỏ anh đưa em về
Với cuộc sống nông nghiệp, người Việt phải xem trời để biết thời tiết, biết ngày giờ trồng trọt, chăn nuôi. Học giả Thiện Ðình đã sưu tầm một số câu nói quen thuộc hay ngạn ngữ nói lên luân thường đạo lý, cách học ăn học nói, cách chăm sóc ruộng vườn, buôn đông bán tây, ăn ở phúc đức, quan hình sát sắc, nhân tình thế thái, phong thổ sản vật, xét lẽ phải chăng, v.v., nói chung là cái quốc hồn quốc túy của người Việt. Trong đó, khái niệm “trời” được dùng thông dụng nhất qua ý nghĩa thiên nhiên và thời tiết: [9]
-Trời nắng tốt dưa, trời mưa tốt lua.
-Trời ấm tốt mạ, trời giá tốt rau.
-Trời nắng chóng mưa, trời mưa chóng tối .
-Gió đông động bể, nước mưa cưa trời.
-Trời đang nắng cỏ gà trắng thì mưa.
-Trời nắng chang chang, đất càng khó cuốc.
-Trời mưa phân-phất, ướt đất dễ cày.
-Thấp mạ phải tính con nước; cấy lúa phải xem thời trời.
-Giữa trời có sang Vân-hán; một năm là mấy tháng xuân
-Trời rộng bể cũng rộng; trăng cao bóng càng cao.
-Trời quang mây tạnh cũng êm đềm; quãng vắng canh chầy đêm dài đằng
đẵng.
-Mù trời mới bắt được két; mưa mãi lấp cả lỗ rươi.
Từ cách quan sát “trời” để biết thời tiết mà trồng trọt, đánh cá, chăn nuôi, người Việt cũng rút tỉa cả những bài học về cách xử thế hoặc về đạo đức mẫu mực cho sự giao tế hằng ngày. Ðâu là một khái niệm khách quan về Trời, một chân lý đại đồng, đến từ kinh nghiệm sống với xã hội và thiên nhiên:
-Trời cao mấy tất, đất dày mấy phân; ông trăng một sào, ông sao một mẫu.
-Trời đất hương hoa, người ta cơm rượu.
-Biết sự trời một đời không khó.
-Thua trời một vạn còn hơn thua bạn một ly.-Của trời của chung.
-Chín phương trời, mười phương phật; một thì loạn, vạn thì bình.
-Lộc nước ngôi trời; quê cha đất tổ.
-Trời gần trước mắt không xa, phúc qui thiên đàng, tội qui địa ngục.
-Trời cao có mắt.
Người Việt biết là có Trời nhưng không cần chứng minh sự hiện hữu của Trời. Họ dùng trực giác và kinh nghiệm sống để cảm nghiệm sự hiện diện này như là “tác giả” của mọi sự cao cả quá tầm tay loài người trên đời này. Do đó, có những câu đố hay bài hát vè mà không cần câu trả lời, vì ai cũng biết câu giải đáp phải là “Trời”:
Non kia ai đắp mà cao
Sông kia ai bới ai đào mà sâu?
Ðố ai biết lúa mấy cây
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng?
Thấy anh hay chữ em hỏi đôi lời
Thủa khai thiên lập địa, ông Trời tròn ai xây?
Người Việt chấp nhận là mình không biết Trời từ đâu ra, nhưng vẫn tin là phải có Trời thì mới có mọi sự an bài công minh trên trần gian. Qua một số câu ca dao tục ngữ sau đây chúng ta thấy ý niệm Trời trong lòng người Việt mang một tính chất rất đại đồng và bình dân, biểu hiệu một sự trật tự trong chúng sinh, một sức mạnh bảo bọc che chở vạn vật, để muôn loài dựa vào đó mà sống: [10]
- Có Trời thì mới có ta.
- Trời sinh voi, trời sinh cỏ.
- Trời cho ai nấy hưởng.
- Trời kêu ai nấy da.ï
- Trời sinh, Trời dưỡng.
- Cha mẹ sinh con, trời sinh tánh.
- Trời đánh tránh bữa ăn.
- Trời đánh thánh vật.
Tuy Trời uy quyền cao cả, nhưng người Việt thích nhân cách hóa Trời là “Ông” và thường xin “Ông trời” phù trợ, che chở, ban cho nhu cầu riêng tư hoặc những ước mơ thầm kín của mỗi người.
Bắc thang lên hỏi ông trời
Sao không bố thí cho tôi tí chồng
Ông Trời ngoảnh mặt lại trông
Mày hay kén chọn, ông không cho mày.
Lạy Trời mưa xuống
lấy nước tôi uống
lấy ruộng tôi cày
lấy đầy bát cơm
lấy rơm đun bếp, v.v..
Khi gặp nghịch cảnh hoặc quá khổ cực, người Việt oán trách Trời. Họ kêu Trời để chứng giám và minh oan, vì họ tin rằng Trời là nguyên lý cho mọi sự công bằng trên đời này. [11]
Trời ơi có thấu chăng Trời
Công ta vun xới cho người hái hoa.
Trời ơi! Trời ở chẳng cân
Người ăn chẳng hết, người lần không ra.
Người thì mớ bẩy mớ ba
Người thì áo rách như là áo tơi.
Ở nhà quê, trước sân mỗi nhà thường có một trụ gỗ, trên có thắp một cái đèn nhỏ và nắm hương gọi là “đèn trời.” Ðêm đêm người ta đến đó khấn vái hoặc đem những đau khổ trong cuộc sống mà than van với Trời:
Mỗi đêm mỗi thắp đèn Trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
Lá vàng thì ở trên cây
Lá xanh rụng xuống, Trời hay chăng Trời.
2. “Trời” trong các chuyện cổ tích
Truyện cổ tích Việt Nam có nhiều sự tích về thần Trụ Trời, các thần hạ bộ trên trời, và cả Bà Trời nữa. [12]
- Thần Trụ Trời: tổ tiên người Việt (Cổ Bách Việt) cho rằng trời đất là do công lao của một vị Thần Khổng Lồ, tức là Thần Trụ Trời (Trụ: do 2 chữ Mộc và Chủ). Lúc trời đất còn hỗn mang, Thần ở trong đám mù tịt không biết là bao lâu. Bỗng có lúc Thần đứng dậy, ngẩng đầu đội trời lên, rồi đào đất khuân đá đắp thành một cái cột lớn để chống trời. Cột chống cao lên chừng nào thì trời như tấm màng mênh mông được cao lên chừng ấy. Thần vừa đào, vừa đắp, chẳng bao lâu cột cao dần và đầy trời lên mãi tận mây xanh, trời đất phân đôi, trời như cái bát úp, đất phẳng như mâm vuông, nơi giáp nhau gọi là chân trời. Khi vòm trời đã khô, Thần cho là âm dương đã phân định, cột trụ trời không cần nữa, Thần phá đi, đất đá ném tung khắp nơi, trở thành núi cao hay hòn đảo giữa biển khơi. Tương truyền đây là cột trụ ở huyện Kinh Môn tỉnh Hải Hưng nằm trên núi Yên Tử, trên đỉnh cao nhất có Kình Thiên Trụ, và chùa Tường Lân mà An Sinh Vương Trần Liễu thân sinh Ðại Vương Trần Hưng Ðạo, từng đóng ở đây. Về sau Trần Nhân Tông, tổ thứ nhất của phái Trúc Lâm Việt Nam, rể yêu của Trần Hưng Ðạo, cho lập đền thờ họ Trần tại đây.
- Các thần khác nối tiếp công việc xây dựng thế gian của Thần Trụ Trời như trong bài ca dao:
Ông đếm cát
Ông tát bể
Ông kể sao
Ông đào sông
Ông trồng cây
Ông xây núi
Ông tối trời
Ông cời cua
Ông lùa chim
Ông tìm sâu
Ông xâu cá
- Các thần bộ hạ có quyền phép như Thần sấm, thần sét, Thần gió, Thần mưa, Sơn Tinh, Thủy Tinh, v..v… Việc cai trị nhà trời cũng có khi lỏng lẽo nên xảy ra những vụ loài người loài vật coi Trời bằng nắp vung (Cường Bạo Ðại Vương), hoặc chuyện Thần Mưa chễnh mảng nhiệm vụ, để dưới thế hạn hán lâu ngày, loài vật dành nhau từng ngụm nước, phải cử Cóc lên kiện Trời. Cóc đại náo cửa nhà Trời, Trời phạt Thần Mưa và gọi Cóc bằng Cậu. Từ đó mỗi lần Cóc kêu thì sẽ có mưa!
Con cóc là cậu Ông trời
Ai mà đánh cóc thì trời đánh cho!
- Bà Trời: theo nguyên lý âm dương, đã có Ông Trời thì phải có Bà Trời. Chuyện cổ tích Bà Nữ Oa kể lại một Thần Cái khổng lồ (chế độ mẫu hệ), có công xây rừng rú, đào sông bể, đội đá vá trời, san bằng đất với sức khoẻ và sức nóng vô biên. Nữ Oa thách thức Tử Tượng đấu sức thi tài, nếu thắng sẽ nhận làm chồng. Hẹn trong ba ngày phải xây một ngọn núi thật cao, núi Tử Tượng xây không được cao, chỉ thấy được các nước lân cận, núi Nữ Oa nhìn thấy cả bốn chân trời. Nữ Oa đạp đổ núi Tử Tượng, đất đá văng tung tóe thành đồi và đảo xa, còn núi Bà Nữ Oa có thể là núi Nam giới (Hà tĩnh) hoặc là núi Bà Ðen (Tây Ninh). Cũng có nhiều truyện về các Nữ Thần như Nàng Bân, Ả Chức, Nữ Thần Lửa (một bà già rất khô khan và hung dữ), Nữ thần mặt Trăng, Nữ thần mặt Trời. (13)
- Các chuyện cổ tích “Chum Vàng Bắt được,” “Cái Cân Thủy Ngân”, “Chuyện Tấm Cám” thường nói về “Ông Trời” như một vị Thần thương người thiện, ghét kẻ ác đức, giáng phúc cho người tốt, họa phúc cho người xấu. Trời rất cao, Trời thấy mọi sự, lưới Trời lồng lộng, kẻ bất nhân ác đức không lẩn tránh được mắt Trời. Trời đại diện cho luật công bằng trên đời này, không ai thoát được.
® ¬ ®
End Notes
(1) Xem “Thượng Ðế Có Hay Không?” Nguyễn Ðoàn Tân, Sứ Ðiệp #5, Mùa Xuân 2000, pp. 11-17.
(2) Nguyên văn: “Religion as ultimate concern is the meaning-giving substance of culture, and culture is the totality of forms in which the basic concern of religion expresses itself. In abbreviation: religion is the usbstance of culture, culture is the form of religion.” Paul Tilllich, Theology of Culture, Oxford University Press, 1959, p. 42. Một thời gian sau, khi đi sâu vào phương pháp và thần học hệ thống, với ảnh hưởng của hiện sinh học Tillich không dùng mô thức “form và substance” nữa, thay vào đó dùng mô thức “câu hỏi và trả lời” (existential question và theological answer) để kết nối mầu nhiệm mặc khải với những ưu tư khao khác của con người. Xin xem Systematic Theology, V.I, University of Chicago Press, 1951, pp. 18-27.
(3) Giáo Sư Trần Ðoàn dùng “critical theory” để lột trần các nguyên lý “domination,” “participation” và “intergration” đã được áp dụng trong tiến trình truyền giáo tại Việt Nam, và cho thấy những trở ngại phải vượt qua nếu Việt thần muốn đạt đến trình độ “bản vị hóa.” Tác giả đề nghị dùng từ ngữ “bản cách hóa” để diễn đạt toàn vẹn hơn nguyên lý “communication” tiềm tàng trong Việt thần. Xem “Sát nhập, Hội Nhập và Bản Cách Hóa,” Triết Ðạo, I. 1, 2001, pp. 59-102.
(4) Xem lời giải thích của Giáo Sư Peter C. Phan về tên “Ðức Chúa Trời Ðất” mà Alexandre de Rhodes dùng trong cuốn Mission and Cetechesis, Alexandre de Rhodes và Inculturation in Seventeenth-Century Vietnam. Orbis Book, New York, 1998, pp. 164-165.
(5) Nguyễn Như ý, chủ biên, Ðại Tự Ðiển Tiếng Việt, Nhà Xuất Bản Văn-hóa Thông Tin, Hà-Nội, 1998.
(6) Văn Tân và Nguyễn Văn Ðảm (bổ túc), Từ Ðiển Tiếng Việt, 3rd printing, Nhà Xuất Bản Khoa Học Hà Nội. Hà Nội, 1994, pp. 823-824.
(7) Những bài nghiên về tín ngưỡng Việt Nam của Linh Mục Trần Phổ, “Thờ Trời” (38 trang) và “Thờ Tổ Tiên” (61 trang), đã đưọc in ra thành sách mỏng (pamphlet) nhưng không có ghi ngày hay nơi xuất bản.
(8) Trần Phổ, “Thờ Trời,” p. 2
(9) Thiện Ðình, “Nói Có Sách,” Nam Phong Tạp Chí, 141: 211-223, Tháng Tám, 1929)
(10) Xem Nguyễn Lâm, Từ Ðiển Thành Ngữ và Tục Ngữ Việt Nam, Nhà Xuất Bản Hà Nội, 1994
(11) Nguyễn Văn Ngọc, Tục Ngữ Phong Dao, Nhà Xuất Bản Hà Nội, 1991.
(12) Xem Bùi Văn Nguyên, Việt Nam Thần Thoại và Truyền Thuyết, Nhà Xuất Bản Hà Nội, 1993.
(13) Ðổ Thị Hảo, Các Nữ Thần Việt Nam, Nhà Xuất Bản Phụ Nữ, Hànội, 1993
https://catechesis.net/dao-duc-chua-troi-vai-tro-cua-ngon-ngu-trong-tien-trinh-hoi-nhap-van-hoa-2/ (cập nhật ngày 11.5.2023)
---Còn tiếp---