Ngày tháng: 09/05/2025
Đang truy cập: 17

Đạo đức học diễn ngôn: Jurgen habermas (phần 1/2) - Joseph Tân Nguyễn ofm

ĐẠO ĐỨC HỌC DIỄN NGÔN: JURGEN HABERMAS

(phần 1/2)

Joseph Tân Nguyễn ofm


Triết học thời Cận Đại khai triển ý tưởng “tự do” theo hai chiều hướng khác biệt. Các triết gia duy thực tranh luận về tự do chính trị qua các chủ đề công bằng xã hội, quyền tư sản và quyền phản biện. Các triết gia duy tâm khai triển chiều kích tự chủ của lý tính và ý thức tổng thể về logic phát triển của lịch sử. Cả Kant và Hegel lý giải tự do như khả năng phán đoán của lý trí vượt trên bản thân mình hoặc giới hạn của lịch sử. Tuy nhiên, khuynh hướng tuyệt đối hóa lý tính của thời Khai Sáng tồn đọng hai vấn đề. (1) Liệu năng lực phán đoán của lý tính thực hành có đủ khách quan trước tình huống đa dạng của lý tính hiện đại không? (2) Có cách nào kiểm chứng giá trị chân thực của tinh thần tuyệt đối trong lịch sử? 

Sự mơ hồ về bản chất của lý tính đã đưa đến sự phân tách trong triết học sau Hegel. Phe hữu xem tinh thần tuyệt đối như sự siêu việt hóa và giải phóng của con người; phe tả nhìn thấy một hình thức thống trị mới của lý thuyết trên thực hành. Thế giới hiện đại đang chứng kiến sự tương tác bất ổn giữa lý tính tân thời và thực tại tối hậu. Hứa hẹn giải phóng của Khai Sáng không được thành toại trong cơ chế chính trị hiện đại. Quyền lực và khao khát độc lập đi đôi với bạo hành và ý muốn thống trị. Tiến bộ kỹ thuật luôn kéo theo nguy cơ hủy hoại sự sống và các giá trị nhân phẩm. Công nghệ tách biệt tri thức khỏi thực hành vốn cần thiết cho hành trình tìm kiếm khôn ngoan và hạnh phúc đích thực. Con người trở thành móc xích trong guồng máy điều hành vĩ mô nhằm mục đích thỏa mãn tham vọng của các nhóm lợi ích. Trong thực tế, lý tính tân thời đang trở thành công cụ cho sự thống trị và tha hoá hơn là giải phóng con người. Trường phái Frankfurt muốn truy tầm tận gốc các nguyên nhân và tìm giải pháp cho sự khủng hoảng của lý tính tân thời.

Trường phái Frankfurt muốn vạch trần các yếu tố tha hóa tiềm tàng trong cơ cấu tư duy và quá trình hiện đại hóa của lý tính Khai Sáng. Jurgen Habermas (1929-), một triết gia thuộc thế hệ thứ hai của trường phái Frankfurt, nhận ra não trạng thực chứng đang thao túng hệ thống điều hành xã hội trong các môi trường lao động và tương tác vốn gây nên sự bất quân bình giữa lý tính kỹ thuật và lý tính tương thông trong xã hội hiện đại. Qua suy tư phản xạ, quan tâm tự chủ thôi thúc con người tìm cách khai trừ mọi hình thức nô dịch, và đang tích tụ lại thành lý tính tự chủ vốn điều phối sự cấu thành của tri thức. Để hồi phục sự quân bình giữa các hình thức lý tính hiện đại, Habermas khai triển một học thuyết xã hội phê phán liên ngành, kết nối triết học phân tích với tâm lý học và xã hội học, tạo nền tảng cho đạo đức học diễn ngôn theo mô hình phổ quát của ngữ dụng giao tiếp. Bài tiểu luận này sẽ tìm hiểu quan điểm tự do của trường phái Frankfurt qua cách nó phê bình lý tính thời Khai Sáng. Sau đó chúng ta sẽ khai triển lý tính tự chủ và đạo đức học diễn ngôn của Habermas trong tương quan với suy tư thần học.

NỖ LỰC GIẢI PHÓNG LÝ TÍNH

Trường phái Frankfurt xuất thân từ Ban Nghiên Cứu Xã Hội Frankfurt (1924). Horkheimer và giới tri thức bấy giờ hợp thành một lực lượng phê phán xã hội với mục tiêu giải thoát con người khỏi các hình thức bóc lột, nô dịch và tha hóa tiềm tàng trong chủ nghĩa tư bản. Trong thời gian Hitler nắm chính quyền, nhóm này lưu vong ở Hoa Kỳ, nghiên cứu nhắm vào phê bình chủ nghĩa thực chứng và duy khoa học. Sau khi trở về Đức, Horkheimer, Adorno, Marcuse, Benjamin, và Fromm, v.v., cùng nhau phát huy mạnh mẽ tư tưởng triết học phê phán xã hội. Thế hệ thứ hai, Schmidt và Habermas, tuy khác nhau về tư tưởng nhưng vẫn duy trì tinh thần phê phán của hai nhà tiền phong Horkheimer và Adorno.

Trường phái Frankfurt khởi đầu lý luận dưới bóng dọi của triết học Hegel-Marx. Họ kế thừa học thuyết chân lý và lý luận biện chứng của Hegel nhưng loại bỏ bản thể luận tinh thần tuyệt đối. Họ dùng cơ sở lý luận của Marx, nhưng thay thế chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa lý tính. Họ đón nhận quan điểm tự chủ (autonomy) của Kant nhưng nhấn mạnh vào chủ thể “tập thể”. Trường phái Frankfurt hấp thụ lý luận tương quan xã hội của Dilthey, Bergson, Schopenhauser và Nietzsche. Họ quan tâm về tính tự phát, tự do sáng tạo và sự thống trị của lý tính công cụ, và như thế rất gần với chủ nghĩa hiện sinh. Họ kết nối tâm lý học cá thể của Freud với phân tích kinh tế xã hội của Marx để tái tạo các hình thức của lý tính tự chủ. Lý tưởng này đã để lại âm vang sâu đậm trong nền triết học lục địa Âu châu. Chúng ta hãy lược qua tư tưởng của ba triết gia tiêu biểu của trường phái Frankfurt: Horkheimer, Adorno và Habermas.

Max Horkheimer (1895-1973), trong bài khảo luận nổi tiếng “Lý Luận Truyền Thống và Lý Luận Phê Phán”[1], lấy lại viễn tượng phê phán của Marx để phân biệt giữa hai loại lý luận. “Lý luận truyền thống” tiếp nhận thể chế xã hội như một cái gì tự nhiên, lấy tri thức thuần túy để biện minh cho quá trình gia tăng lợi ích từ lao động sản xuất, lấy quan điểm cá nhân và khoa học tự nhiên làm nền tảng cho mọi nhận thức và phán đoán phổ quát. Còn “lý luận phê phán” xem chế độ hiện hành như một cơ cấu hệ thống, cần lột trần những gì không chân thực với mục tiêu giải phóng tư duy xã hội khỏi những luận lý giáo điều. Chủ nghĩa thực chứng là một minh họa cụ thể về lý luận truyền thống. Nó giới hạn thực tại trong phạm vi kinh nghiệm, chỉ nhắm vào việc mô tả hiện tượng và gạt ra ngoài các vấn đề không thể giải quyết về thực tại. Nó thần tượng hóa khoa học và loại bỏ siêu hình học, văn hóa và tôn giáo. Tuy muốn giải phóng con người khỏi sự thống trị của giáo điều, nhưng khuynh hướng hiện thực hóa đòi hỏi mọi lý luận phải tuân phục cơ cấu và phương pháp luận khoa học hầu để điều hành và bảo trì trật tự xã hội. Như thế, chủ nghĩa thực chứng áp đặt hậu quả của nghiên cứu khoa học lên các hình thức sự sống, và loại bỏ các yếu tố đạo đức hay nhu cầu tự huấn nhân cách khỏi những năng lực tự phát trong đời sống xã hội.

Horkheimer phê phán tinh thần Khai Sáng như là sự tự hủy khi nó dùng yếu tố phủ định tự ngã trong biện chứng pháp của Hegel. Đây là một sự thụt lùi trong tiến bộ, vì dưới ánh sáng của phát triển, hạt giống dã man sẽ nẩy mầm trên mặt bằng tối tăm của thần thoại. Lời tuyên bố “tri thức là sức mạnh”[2] của Bacon đã hợp pháp hóa tiến trình biến khoa học thành hệ thống quyền lực chi phối đời sống con người. Tuy hứa hẹn sự tự chủ và giải phóng, nhưng tinh thần Khai Sáng đã giản lược tri thức thành những thao tác theo mục đích và hiệu quả đã được đặt định trước do cơ cấu hệ thống. Một hình thức “thực dân” mới đang thành hình trong khuynh hướng công nghiệp hóa của não trạng tân thời. Cái được gọi là “văn hóa đại chúng” thật sự chỉ là hàng hóa vốn đã được sản xuất hàng loạt và theo những định hướng có sẵn. Văn hóa là thương phẩm tiêu thụ bởi đại chúng, mà tương quan cung-cầu được kết xuất từ hậu quả của nghiên cứu thị trường và kế hoạch quảng cáo nhằm mang lợi ích tối đa cho giới tư bản. Những gì đại chúng tiếp cận là sản phẩm của tiến trình công nghiệp hóa, tiêu chuẩn hóa và cưỡng bức hóa. Lý tính công cụ thao túng cách giao tiếp của con người, xem tư duy như một công cụ để mang hiệu quả và biến trí tuệ thành máy móc điều hành các hệ thống.

Theodor W. Adorno (1903-1969) có nhiều sáng tác đáng kể về các lãnh vực xã hội học nghệ thuật và âm nhạc, cùng với ảnh hưởng của chủ nghĩa thực chứng, triết học Hegel và chủ nghĩa hiện sinh trên đời sống xã hội. Đóng góp tiêu biểu của Adorno là phép biện chứng phủ định vốn đã trở thành cơ sở lý luận cho trường phái Frankfurt[3]. Hegel dùng biện chứng pháp để giải quyết mâu thuẫn giữa lý thuyết và thực hành, nhưng Adorno phản đối tính đồng nhất tiềm tàng trong đó. Adorno chỉ ra rằng biện chứng pháp phủ định của Hegel, tinh thần là hợp đề của sự đối nghịch giữa chủ thể và khách thể, cuối cùng vẫn là một lời khẳng định. Triết học phê phán cần một sự phủ định dứt khoát và triệt để, tái phủ định của phủ định, tức là “phép biện chứng phủ định”. Thật là một sự hão huyền khi Hegel khẳng định rằng lý trí có thể nắm bắt bản chất của tổng thể thực tại, hay tính đồng nhất của chỉnh thể mâu thuẫn. Con người không thể xây dựng một hệ thống lý luận bao trùm cả tư duy lẫn đối tượng, nhất là khi đối tượng không ngừng sinh diệt và không ngừng phủ định. Nếu thực chất của biện chứng phủ định là phê phán, thì lịch sử phải gắn liền với sự phủ định, tức là cắt đứt tính liên tục của lịch sử.

Một cách tích cực, xã hội học phê phán của Adorno vạch trần chủ nghĩa thực chứng tiềm tàng trong xã hội học. Adorno cho rằng xã hội học thực chứng đã tách rời đối tượng khỏi lý luận, chỉ quan tâm đến khía cạnh phương pháp để bảo đảm tính khách quan trong các phân tích về sự hình thành của xã hội. Chủ nghĩa thực chứng đem mô hình khoa học tự nhiên cấy vào xã hội, và chỉ nhắm vào sự phục chế đối tượng cách thuần túy. Xã hội học thực chứng lấy quan sát và thực nghiệm làm phương pháp duy nhất, dùng tính chính xác và định lượng hóa để xác định ý thức của hành vi xã hội. Tuy khoác cái áo “khách quan” bên ngoài nhưng xã hội học thực chứng cho phép bản thân khoa học đặt định tính khách quan của mình cách tùy tiện, xem yếu tố giá trị như là một chân lý dư thừa cần phải khai trừ. Nói tóm lại, xã hội học phê phán lấy tổng thể và quy luật vận động của xã hội làm đối tượng và cố gắng vạch trần nguyên nhân của đau khổ và bất công xã hội, tức là khai triển các nguồn phủ định xã hội, văn hóa và thế giới quan. Muốn đạt đến mục tiêu này, xã hội học phê phán cần tổng hợp các nghiên cứu xã hội, kết nối khoa học với triết học, kỹ thuật với nghệ thuật, và tìm sự giao thoa giữa các môn nghiên cứu xã hội. Đây là thử thách và sứ mệnh của Habermas.

Jurgen Habermas (1929-) có tầm nhìn toàn diện về xã hội hiện đại và lý tính tự chủ. Sau khi nhận bằng tiến sĩ triết học với luận án về Schelling (1954), Habermas viết luận án thứ hai, “Cấu trúc của sự chuyển đổi của không gian công cộng”[4] (1961). Ông dạy tại Đại học Heidelberg cho đến khi kế nhiệm ghế giáo sư của Horkheimer tại Frankfurt (1964-70). Sáng tác của Habermas bao trùm rộng rãi các chủ đề trải dài từ nhân học, chính trị-xã hội, mỹ học, nhận thức luận, ngôn ngữ và tôn giáo. Tác phẩm “Tri Thức và Các Quan Tâm Của Con Người”[5] đặt nền tảng chuẩn tắc cho một học thuyết xã hội phê phán đa dạng, vốn đã được Horkheimer, Adorno, và các thành viên của trường phái Frankfurt khởi đầu trước đó. Tác phẩm “The Theory of Communicative Action” (1983) tổng kết các nỗ lực phân tích lý tính tự chủ và tạo nền tảng cho đạo đức học diễn ngôn. Lý luận chính yếu của Habermas là các quan tâm hay lợi ích trong lĩnh vực tri thức và nghiên cứu khoa học vật lý, sinh học và xã hội học biểu hiện khác nhau nhưng cơ bản thì như nhau. Đó là sự thống nhất của lý trí theo đuổi tự do và tự chủ cho chính nó. Habermas kết hợp triết học biện chứng của Marx, triết lý duy tâm của Đức, phân tâm học của Freud, thuyết thực dụng của Peirce, thuyết phân tích ngôn ngữ của Wittgenstein để thiết lập nền tảng cho học thuyết xã hội phê phán của mình. Tuy không đồng ý với thái độ bi quan của trường phái Frankfurt và tính cường điệu quá mức trong chủ nghĩa cấp tiến của hậu hiện đại, Habermas vẫn muốn theo đuổi lý tưởng về một xã hội công bằng và tự do khởi xuất từ phong trào Khai Sáng.

Trước Habermas, các học thuyết xã hội học tiếp cận mối tương quan giữa cơ cấu xã hội và hành vi cá nhân qua một nhãn quan duy thực, rồi từ đó thiết kế giả thuyết có tính quy định về bản chất của xã hội. August Comte quan sát ảnh hưởng của nghi thức lên cách tồn tại của cá nhân. Karl Marx nghiên cứu cách tham vọng vật chất của giới tư bản đưa đến tình trạng tha hóa của giới lao động. Emily Durkheim chú tâm đến ảnh hưởng của sự cấu kết cộng đồng trên cách chủ thể nhận diện mình. Peter Berger nhấn mạnh vào xã hội tính của thực tại. Max Weber phân tích động lực của hành vi cá nhân trong tương quan với mạng lưới kinh tế. Nhưng Habermas cho rằng, nếu bản chất xã hội là do chủ thể thì phân tích xã hội cần bao gồm cả những quan tâm tư biện và chủ quan tính khác biệt được xã hội hóa và ngôn ngữ hóa vốn cấu thành nên tri thức con người. Đó là lý do ông đã khai triển một lý thuyết phê phán toàn diện về sự hiện đại hóa của xã hội.

Theo Habermas, xã hội là sự cấu kết của các mối tương quan trong lao động và giao tiếp. Trong lao động con người chọn những hành vi nhằm gia tăng sự hiểu biết về thế giới vật chất. Trong giao tiếp, con người tìm các hình thức tương tác nhằm gia tăng sự hiểu biết lẫn nhau. Nhưng trong thế giới công nghệ ngày nay, con người ý thức rằng mình không còn làm chủ hoàn toàn môi trường sản xuất hay giao tiếp. Mọi hành vi của chúng ta nằm trong tầm kiểm soát kỹ thuật vốn đang che giấu động lực tối đa hóa lợi ích của giới lãnh đạo tư bản, qua đó, logic của hệ thống đang thay thế logic của thế giới sự sống. Khi ý thức được sự tha hóa này, con người tìm cách giải phóng mình khỏi lối tư duy hệ thống và các mối đe dọa về quyền tự chủ của mình. Do đó, xã hội học phê phán phải có khả năng phân tích các động cơ thúc đẩy sự phát triển đa dạng của xã hội và tập trung vào mô hình lý tính có tiềm năng giải phóng con người.

Học thuyết xã hội phê phán của Habermas vừa thực dụng và vừa đa nguyên trong nỗ lực kết nối tri thức với những yếu tố xã hội cấu thành của nó. Thực dụng là vì Habermas khẳng định bản chất của tri thức đến từ những lợi ích của con người. Đa nguyên là vì trong đó các hình thức lý tính khác nhau xuất hiện từ những lợi ích cốt lõi khác nhau. Habermas đưa ra một giải trình xác đáng về mối quan hệ biện chứng giữa lý thuyết và thực hành. Mọi tiến bộ về tri thức khoa học hay xã hội đều được định hướng bởi các “lợi ích” vốn tạo nên các hệ hình tri thức khác nhau: lý tính kỹ thuật, lý tính thực tiễn và lý tính tự chủ. Một khi nhận ra vấn đề của xã hội hiện đại, Habermas tìm cách giải quyết qua dự án đạo đức học diễn ngôn như là mô hình lý tưởng của lý tính tự chủ được xã hội hóa.

 

[1] Max Horkheimer, bài tiểu luận “Traditional and Critical Theory” (1937) trong cuốn Critical Theory, Select Essays. Continuum, London, 1972.

[2] “ipsa scientia potentia est” trích từ Francis Bacon, Meditationes Sacrae (1597), Timeless book. (xem: https://en.wikisource.org/wiki/Meditationes_sacrae).

[3] Theodor W. Adorno. Negative Dialectics. Routledge Press, London, 1990.

[4] Jürgen Habermas, Structural Transformation of the Public Sphere: An Inquiry into a Category of Bourgeois Society (1961). Thomas Burger & Frederick Lawrence dịch, MIT Press, Massachusetts, 1991.

[5] Jurgen Habermas. Knowledge & Human Interests. (Đức: Erkenntnis und Interesse. 1961). J. Shapiro dịch, Heinemann Educational Books, London, 1972.

zalo
zalo