Ngày tháng: 15/01/2025
Đang truy cập: 9

ĐGH Benedict XVI, Thông điệp Deus Caritas Est - Phần 2/8 - 2023

Thông điệp Deus Caritas Est - Thiên Chúa là tình yêu Của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI

Phần 2/8

“GỬI CÁC GIÁM MỤC, CÁC LINH MỤC VÀ PHÓ TẾ

CÁC TU SĨ NAM NỮ VÀ TẤT CẢ CÁC TÍN HỮU VỀ ĐỨC ÁI KITÔ GIÁO”

 

PHẦN THỨ NHẤT: SỰ THỐNG NHẤT CỦA TÌNH YÊU TRONG SÁNG TẠO VÀ LỊCH SỬ CỨU ĐỘ

Cái mới của niềm tin theo Thánh Kinh

9. Trước tiên là hình ảnh mới mẻ của Thiên Chúa. Trong những nền văn hóa vây quanh thế giới của Thánh Kinh, cuối cùng thì hình ảnh của Thượng đế và của các thần thánh không được rõ ràng và đối chọi nhau. Ngược lại, trên con đường đức tin theo Thánh Kinh thì điều này lại rõ ràng và độc đáo hơn như lời kinh căn bản của Israel, là kinh Schema gồm tóm trong câu: “Nghe đây, hỡi Israel ! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất” (Đnl 6,4). Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, Người là Đấng Sáng Tạo trời đất và là Thiên Chúa của mọi người. Có hai điều trong khẳng định độc đáo này: tất cả các thần thánh khác không phải là Thiên Chúa và tổng thể thực tại, nơi chúng ta đang sống, đều thuộc về Thiên Chúa, do chính Người sáng tạo. Đương nhiên có rất nhiều tư tưởng về sáng tạo ở các nơi, nhưng ở đây điều này rất rõ ràng là không phải bất cứ Thiên Chúa nào, nhưng là Thiên Chúa duy nhất, chân thật, là nguyên ủy của toàn thể thực tại, thực tại này xuất phát từ quyền lực của lời Người sáng tạo. Điều đó có nghĩa là, thụ tạo rất thân thiết với Người, chỉ vì Người đã muốn và đã sáng tạo chúng như thế. Từ đó xuất hiện yếu tố quan trọng thứ hai: Thiên Chúa yêu thương con người. Quyền lực thần linh, mà triết gia Aristote, ở đỉnh cao của triết học Hy Lạp, tìm cách nắm bắt qua suy tư, là đối tượng đáng khao khát và yêu thương của mọi hữu thể - như đối tượng được yêu mến, Thượng Đế này làm chuyển động vũ trụ[6] – nhưng Thượng Đế này không cần gì cả và cũng không yêu, nhưng chỉ được yêu. Thiên Chúa duy nhất mà Israel tin tưởng, chính Người cũng yêu. Tình yêu của Người là một tình yêu tuyển chọn. Từ giữa muôn dân, Người đã chọn Israel và yêu dân này - đương nhiên với mục đích để chữa trị toàn thể nhân loại. Người yêu, và người ta có thể xem tình yêu của Người là eros, nhưng cũng đồng thời là agape[7].

Hai vị ngôn sứ Hôsê và Êdêkien đã đặc biệt diễn tả đam mê của Thiên Chúa đối với dân Người bằng những hình ảnh từ ái táo bạo. Liên hệ giữa Thiên Chúa với Israel được trình bày bằng hình ảnh hôn ước và hôn nhân; vì thế việc thờ tà thần được xem như là ngoại tình và đĩ điếm. Qua đó, như chúng ta đã thấy người ta muốn nhắm đến việc thờ phượng sự phong phú về mặt sinh sản với sự lạm dụng eros, nhưng đồng thời, người ta cũng diễn tả mối liên hệ trung tín giữa Israel và Thiên Chúa của mình. Lịch sử tình yêu của Thiên Chúa với Israel nằm trong chiếu kích sâu thẳm ở chỗ, Người ban cho họ Torah (Lề luật) có nghĩa là mở mắt họ cho thấy rõ bản chất đích thực của con người và vạch cho họ con đường để trở thành con người đúng đắn. Lịch sử này bao gồm sự việc: con người khi sống trung tín với Thiên Chúa duy nhất, sẽ cảm nghiệm mình là người yêu của Thiên Chúa và tìm được niềm vui trong chân lý, trong công bình - niềm vui trong Thiên Chúa, niềm vui đó trở thành hạnh phúc thật của mình: “Con còn ai chốn trời xanh Ban Ngài thế sự thật tình chẳng ham.... Còn hạnh phúc của con là ở kề bên Chúa” (Tv 72[73], 25.28).

16. Như chúng ta đã nói, eros của Thiên Chúa đối với con người cũng hoàn toàn là agape. Không phải chỉ vì eros được ban tặng cách hoàn toàn nhưng không, không do một công trạng nào trước đó, mà còn vì đó là tình yêu tha thứ. Trước hết, ngôn sứ Hôsê chỉ cho chúng ta thấy chiều kích agape của tình yêu Thiên Chúa đối với con người vượt xa phương diện “nhưng không”. Israel làm gãy đổ cuộc “hôn nhân” - đó là giao ước; đáng lý ra Thiên Chúa phải xử phạt và loại bỏ dân tộc này. Nhưng chính lúc đó con người được thấy Thiên Chúa là Thiên Chúa chứ không phải một con người: “Hỡi Ephraim, Ta từ chối ngươi sao nổi! Hỡi Israel, Ta trao nộp ngươi sao đành… Tim Ta quay lại chống chính Ta, sự thương cảm của Ta ray rứt Ta. Ta không muốn thẳng tay thực hiện cơn giận của Ta và một lần nữa tiêu diệt Ephraim. Vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm, Đấng Thánh ở giữa ngươi” (Hs 11,8-9). Tình yêu mãnh liệt của Thiên Chúa đối với dân Người - đối với nhân loại - cũng đồng thời là tình yêu tha thứ. Tình yêu này cao cả đến độ Thiên Chúa chống lại chính mình, tình yêu của Người chống lại công lý của Người. Người Kitô hữu nhìn thấy mầu nhiệm Thập giá đang ẩn tàng trong đó: Thiên Chúa yêu thương con người đến độ trở thành con người, chạy theo họ cho đến độ đi vào cõi chết và với cách thức này đã giao hoà công lý với tình yêu.

Điều đáng chú ý về mặt triết học và lịch sử tôn giáo trong cái nhìn của Thánh Kinh nằm ở chỗ, một mặt có thể nói chúng ta có trước mặt mình một hình ảnh Thiên Chúa thuần túy siêu hình: Thiên Chúa là nguồn gốc nguyên thủy của mọi hữu thể; nhưng nguồn gốc sáng tạo vạn vật – Ngôi Lời, lý trí nguyên thủy - cũng đồng thời là một con người yêu với một tình yêu thực sự đam mê. Như thế, eros được nâng lên hàng cao quý tột đỉnh, nhưng đồng thời được thanh luyện, để eros tan biến vào trong agape. Từ đó chúng ta có thể hiểu, tác phẩm Diễm Ca được đón nhận vào Kinh Bộ Sách Thánh, được giải thích như là những bản tình ca, cuối cùng chỉ để diễn tả liên hệ giữa Thiên Chúa với con người và liên hệ giữa con người với Thiên Chúa. Với cách thức đó, sách Diễn Ca trong văn chương Do Thái cũng như Kitô giáo trở thành nguồn cho nhận thức và cảm nghiệm thần bí, trong đó bản chất của niềm tin theo Thánh Kinh được bộc lộ cách rõ ràng: Vâng, có một sự kết hợp của con người với Thiên Chúa - đó là giấc mơ nguyên thủy của con người - nhưng sự kết hợp này không phải là sự tan biến, chìm sâu vào một đại dương vô danh của thần tính, nhưng là sự hợp nhất tạo nên tình yêu, trong đó cả hai - Thiên Chúa và con người - ở lại trong tình yêu và hoàn toàn trở thành một. Thánh Phaolô nói: “Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người” (1Cr 6,17).

11. Cái mới đầu tiên của niềm tin theo Thánh Kinh, như chúng ta thấy, nằm ở hình ảnh của Thiên Chúa; cái thứ hai, liên hệ chặt chẽ với điều trên, chúng ta gặp trong hình ảnh của con người. Trình thuật sáng tạo của Thánh Kinh nói về sự cô đơn của Ađam, con người đầu tiên, mà Thiên Chúa muốn ban cho một sự hỗ trợ thật gần gũi. Không có một thụ tạo nào có thể trở thành sự hỗ trợ cần thiết cho ông, dù ông có đặt tên cho tất cả thú vật ngoài đồng và mọi chim trời và như thế đã khiến chúng có liên hệ đến cuộc sống của ông. Từ xương sườn của người đàn ông, Thiên Chúa đã tạo dựng nên người đàn bà. Bấy giờ Ađam mới tìm thấy sự hỗ trợ mà ông cần: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2,23). Trong câu này, người ta có thể thấy nhiều quan niệm, tỷ dụ như quan niệm được huyền thoại của Platon gợi lên, con người nguyên thủy mang hình dáng một khối tròn, có nghĩa là hoàn toàn đầy đủ cho chính mình, nhưng thần Zeus chặt con người ra làm đôi để phạt vì tội kiêu ngạo, thế nên từ đó con người luôn tìm phân nửa kia của mình, luôn hướng về đó, để tìm lại tính trọn vẹn của mình[8]. Trình thuật Thánh Kinh không nói gì đến hình phạt, nhưng vẫn có tư tưởng là con người một cách nào đó vẫn chưa trọn vẹn - từ bản chất của mình vẫn đang đi tìm trong người khác phần bổ sung để đạt được sự trọn vẹn của mình; con người chỉ trọn vẹn khi kết hợp giữa người đàn ông và người đàn bà. Trình thuật Thánh Kinh kết thúc bằng một lời tiên tri về Ađam: “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2,24).

Ở đây có hai điều quan trọng: eros như được cắm rễ sâu trong bản tính của con người. Ađam luôn đi tìm và “lìa cha mẹ”, để tìm người đàn bà; cả hai hợp lại mới nói lên tính trọn vẹn của con người, cả hai trở thành “một xương một thịt”. Điếu thứ hai cũng quan trọng không kém: ngay từ lúc sáng tạo, eros hướng con người đến hôn nhân, đến sự ràng buộc, đến sự duy nhất và dứt khoát. Chỉ như thế định mệnh sâu xa của con người mới được thực hiện. Hôn nhân một vợ một chồng đáp ứng với hình ảnh Thiên Chúa độc thần. Hôn nhân căn cứ trên một tình yêu đơn nhất và dứt khoát, trở thành cách trình bày sự liên hệ giữa Thiên Chúa với dân Người: cách thức Thiên Chúa yêu trở thành tiêu chuẩn cho tình yêu của con người. Trong văn chương ngoài Thánh Kinh, người ta không thể nào tìm thấy những suy tư tương tự như việc nối kết chặt chẽ giữa eros và hôn nhân trong Thánh Kinh.

Đức Giêsu Kitô - Tình yêu trở thành xác thể của Thiên Chúa

12. Cho đến bây giờ, chúng ta chủ yếu nói đến Cựu Ước, nhưng việc thẩm thấu nội tại của hai Giao ước cho thấy rõ ràng đó chỉ là một Sách Thánh duy nhất của niềm tin Kitô giáo. Điều mới mẻ thật sự của Tân Ước không phải là các tư tưởng mới, nhưng chính là hình ảnh của Đức Kitô, Đấng ban cho tư tưởng thịt và máu, một hiện thực chưa từng có. Trong Cựu Ước cái mới của Thánh Kinh không nằm trong tư tưởng, nhưng nằm trong hành động đột xuất và độc đáo của Thiên Chúa. Hành động này của Thiên Chúa mang lấy hình thức bi thảm trong sự kiện, chính Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô chạy theo “con chiên bị thất lạc”, chạy theo nhân loại đau khổ và bị tiêu vong. Khi Đức Giêsu trong các dụ ngôn nói về người mục tử chạy theo con chiên bị lạc mất, về người đàn bà đi tìm đồng bạc bị đánh rơi, về người cha chạy đến người con đi hoang và ôm nó vào lòng, thì đấy không những chỉ là những lời nói, nhưng là những cách giải thích bản chất và hành động của chính Người. Trong cái chết thập tự của Người, việc “Thiên Chúa quay lại chống đối chính mình” đạt đến mức tuyệt đỉnh, khi Người tự hiến chính mình, để nâng con người lên và cứu độ họ - đó là tình yêu trong hình thức triệt để nhất. Cái nhìn vào cạnh sườn bị đâm thâu của Đức Giêsu, mà thánh Gioan nói đến (x.Ga 19,37) giúp chúng ta hiểu khởi điểm của Thông điệp này: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8). Nơi đó, chân lý này có thể được nhìn ngắm. Và cũng từ đó có thể định nghĩa tình yêu là gì. Từ cái nhìn này, người Kitô hữu tìm được con đường để sống và để yêu.

13. Đức Giêsu làm cho hành động tận hiến này được tồn tại mãi qua việc Người thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc cuối cùng. Người tiền dự cái chết và sự Phục sinh trong giây phút này, khi trao ban chính mình cho môn đệ trong bánh và rượu, trao ban Mình và Máu Người như Manna mới (x.Ga 6,31-33). Thế giới ngày xưa đã thoáng thấy rằng của ăn đích thực của con người - điều nhờ đó mà con người sống đúng là người - xét cho cùng chính là Logos, là Minh Trí vĩnh hằng, chính Logos đó giờ đây thật sự trở thành lương thực cho chúng ta - với tính cách là tình yêu Bí tích Thánh Thể lôi kéo chúng ta vào hành động tận hiến của Đức Giêsu. Chúng ta không chỉ đón nhận Logos nhập thể, nhưng còn được lôi kéo vào sức năng động của sự tận hiến của Người. Hình ảnh hôn nhân giữa Thiên Chúa và Israel đã trở thành hiện thực trong một cách thức không thể nào tưởng tượng nổi: việc đứng trước tôn nhan Thiên Chúa bây giờ, nhờ thông phần vào hy lễ của Đức Giêsu, thông phần vào Mình Máu Người, trở thành sự kết hợp. Tính “thần bí” của bí tích, căn cứ vào việc Thiên Chúa hạ mình đến với chúng ta. Được thực hiện ở một mức độ hoàn toàn khác biệt, và nâng chúng ta lên những tầm cao vĩ đại, hơn hẳn bất cứ sự vươn cao mang tính thần bí nào khác của con người.

14. Bây giờ chúng ta chú tâm vào một điểm khác: sự “thần bí của bí tích có đặc tính xã hội, vì khi hiệp lễ, tôi được kết hợp với Chúa cũng như với mọi người cùng hiệp lễ: “bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10,17). Việc kết hợp với Đức Kitô cũng đồng thời là một sự kết hợp với những kẻ khác, với những người mà Chúa tự hiến cho. Tôi không thể dành riêng Đức Kitô cho một mình tôi, tôi chỉ có thể thuộc về Người trong cộng đoàn cùng với những ai đã thuộc về Người hay sẽ thuộc về Người. Sự hiệp lễ kéo tôi ra khỏi bản thân để đến với Người và đồng thời đi vào sự hợp nhất với tất cả mọi người Kitô hữu. Chúng ta trở thành “một thân thể”, một sự hiện hữu tan biến vào trong nhau. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân đã thực sự kết hợp lại với nhau: Thiên Chúa hoá thành người, lôi kéo tất cả chúng ta về với Người. Từ đó phải hiểu rằng tại sao agape lại trở thành một tên gọi của Bí tích Thánh Thể: trong Thánh Thể, Tình Yêu (agape) của Thiên Chúa mang tính xác phàm đến với chúng ta, để trong chúng ta và qua chúng ta tiếp tục thực hiện công trình của Người. Từ nền tảng Kitô học mang tính bí tích, chúng ta có thể hiểu cách đúng đắn giáo lý tình yêu của Đức Giêsu. Sự hướng dẫn của Người đưa từ lề luật và các ngôn sứ, hướng về giới răn kép “mến Chúa và yêu người”, cơ sở của cả đời sống đức tin xuất phát từ mệnh lệnh này, không chỉ là luân lý có thể hiện diện cách độc lập bên cạnh niềm tin vào Chúa Kitô và sự hiện diện của Người trong bí tích: đức tin, phượng tự và ethos (đạo đức) thấm nhập vào nhau như một thực tại duy nhất tạo thành agape trong sự gặp gỡ với Thiên Chúa. Ở đây, việc đối kháng thông thường giữa phượng tự và đạo đức tan biến đi: sự kiện “được yêu” và lại yêu thương những người khác, nằm ngay trong chính “phượng tự”, trong cộng đoàn Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể, nếu như không đưa đến hành động thực tiễn của tình yêu, sẽ tự nó trở thành vụn vặt, và ngược lại - như chúng ta còn phải đào sâu hơn nữa – “giới luật” yêu thương chỉ có thể trở thành khả thi, khi không chỉ là sự đòi buộc: tình yêu có thể trở thành “bó buộc”, vì trước đó tình yêu đã được ban tặng.

15. Từ đó chúng ta mới có thể hiểu được các dụ ngôn lớn của Đức Giêsu. Người giàu có ăn chơi (x. Lc 16,19-31) từ nơi bị nguyền rủa, van xin cho anh em ông được biết điều gì sẽ xảy đến cho ai không thèm nhìn đến những kẻ khốn cùng. Có thể nói, Đức Giêsu dùng tiếng kêu cầu giúp đỡ này, để nói với chúng ta, để cảnh cáo và để giúp chúng ta đi vào con đường ngay chính. Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu (x. Lc 10,25-37) mang đến cho chúng ta hai giải thích quan trọng. Cho đến nay, quan niệm “người thân cận” trên căn bản chỉ thu hẹp vào những người đồng hương và những kẻ ngoại bang định cư trên đất nước Israel, như thế chỉ căn cứ trên cộng đồng liên đới của đất nước và của dân tộc, bây giờ ranh giới đó bị loại bỏ: bất cứ ai cần đến tôi và tôi có thể giúp họ, đều là người thân cận của tôi. Ý niệm “người thân cận” đã trở nên phổ quát và rất cụ thể. Dù có nới rộng đến tất cả mọi người, từ này không được trở thành cách diễn tả một tình yêu xa vời không có gì ràng buộc, nhưng đòi buộc sự dấn thân của tôi cách cụ thể ngay ở đây và bây giờ. Trách nhiệm của Hội Thánh phải luôn luôn giải thích cách mới mẻ liên hệ từ xa đến gần trong đời sống thực hành của các tín hữu của mình. Cuối cùng, cũng phải đặc biệt nhắc đến dụ ngôn tuyệt vời về cuộc phán xét cuối cùng (x. Mt 25,31-46), trong đó tình yêu trở thành tiêu chuẩn cho quyết định dứt khoát về giá trị và không giá trị của đời sống một con người. Đức Giêsu tự đồng hoá mình với những người khốn cùng: những người đói, những người khát, người xa lạ, người trần truồng, người bệnh và cả những người đang ở trong ngục tù: “Mỗi lẫn các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với con người hòa lẫn vào nhau: trong những người bé mọn nhất chúng ta sẽ gặp gỡ chính Đức Giêsu và trong Đức Giêsu chúng ta sẽ gặp gỡ Thiên Chúa.

     --Ghi chú--

[6] x. Metaphysics, Xll, 7.

[7] x. Ps.-Dionysius the Areopagite, trong tác phẩm The Divine Names, IV, 12-14 : PG 3, 709-713, ông đã gọi Thiên Chúa vừa là eros vừa là agape.

[8] Plato, Symposium, XIV-XV, 189c-192.d.

-------------------------------

---Còn tiếp---

zalo
zalo