Thông điệp Deus Caritas Est - Thiên Chúa là tình yêu Của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI
Phần 3/8
“GỬI CÁC GIÁM MỤC, CÁC LINH MỤC VÀ PHÓ TẾ
CÁC TU SĨ NAM NỮ VÀ TẤT CẢ CÁC TÍN HỮU VỀ ĐỨC ÁI KITÔ GIÁO”
Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với con người.
16. Sau những suy luận về bản chất tình yêu và ý nghĩa của nó trong niềm tin theo Thánh Kinh, vẫn còn một câu hỏi kép liên quan đến thái độ của chúng ta: Chúng ta có thật sự yêu được Thiên Chúa, Đấng là chúng ta không thể thấy và người ta có thể đòi buộc tình yêu hay không? Có một trở ngại kép được nêu lên từ câu hỏi này để chống lại giới luật kép của tình yêu: Không ai có thể thấy Thiên Chúa thì làm thế nào chúng ta có thể yêu Người? Và câu khác: người ta không thể bắt buộc yêu, vì đó là một cảm xúc, hoặc có hoặc không, chứ không thể do ý chí được. Hình như Thánh Kinh cũng xác nhận vấn nạn thứ nhất, khi viết “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20). Nhưng bản văn hoàn toàn không loại bỏ tình yêu đối với Thiên Chúa như là điều không thể - ngược lại, tình yêu này rõ ràng bị đòi buộc trong mạch văn được trích dẫn trong Thư thứ nhất của Thánh Gioan. Điều được nhấn mạnh chính là mối dây liên kết bất khả phân ly của tình mến Chúa yêu người. Cả hai lệ thuộc vào nhau, đến độ lời quả quyết yêu thương Thiên Chúa sẽ trở thành dối trá, khi con người đóng kín tâm hồn mình lại trước tha nhân hay thù ghét họ. Người ta phải giải thích câu văn này của thánh Gioan như sau: yêu người là một con đường dẫn đến gặp gỡ Thiên Chúa, và quay lưng lại với tha nhân sẽ làm cho chúng ta ra mù loà không gặp được Người.
17. Trong thực tế, chưa có ai thấy Thiên Chúa như chính Người thật sự. Nhưng dù vậy, Thiên Chúa không hoàn toàn vô hình đối với chúng ta, và cũng không để cho chúng ta không thể tiếp cận với Người. Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước, Thư thứ nhất của thánh Gioan nói với chúng ta như thế (x. 1Ga 4,10) và tình yêu của Thiên Chúa xuất hiện giữa chúng ta, trở nên hữu hình qua việc Người “đã sai Con Một đến thế gian, để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4,9). Thiên Chúa tự làm cho mình thành hữu hình: trong Đức Giêsu chúng ta có thể chiêm ngắm được Chúa Cha (x. Ga 14,9). Thực vậy, sự hữu hình của Thiên Chúa thật đa dạng. Trong lịch sử tình yêu mà Thánh Kinh tường thuật cho chúng ta, Người đi đến với chúng ta, tìm cách chinh phục chúng ta mãi cho đến bữa Tiệc ly, mãi cho đến trái tim bị đâm thâu trên thập giá, mãi cho đến những lần hiện ra của Đấng Phục sinh và những kỳ công của Người, qua đó Người đã hướng dẫn Hội Thánh mới được hình thành nhờ hoạt động của các Tông đồ. Và trong lịch sử tiếp đó của Hội Thánh, Chúa cũng không vắng mặt: Người luôn luôn tìm đến chúng ta - qua những con người mà Người soi sáng; qua Lời của Người, trong các bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể. Trong phụng vụ của Hội Thánh, trong lời cầu nguyện, trong cộng đoàn sống động của các tín hữu, chúng ta cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa, cảm nhận sự hiện diện của Người và học cho biết nhận ra Người trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Người đã yêu chúng ta trước và tiếp tục yêu chúng ta trước; chính vì thế mà chúng ta có thể đáp trả lại bằng tình yêu. Thiên Chúa không đòi hỏi một tình cảm mà chúng ta không thể khơi lên trong chúng ta. Người yêu chúng ta và cho chúng ta thấy và cảm nhận tình yêu của Người, và từ “bước trước” này của Thiên Chúa, tình yêu nảy sinh trong chúng ta như một lời đáp trả. Trong tiến trình gặp gỡ này, một điều cho chúng ta thấy rõ là tình yêu không phải chỉ là cảm xúc. Cảm xúc đến rồi đi. Cảm xúc có thể là một tia sáng khai mở diệu kỳ, nhưng tổng thể của tình yêu không phải như thế. Ban đầu chúng ta đã nói về tiến trình thanh luyện và trưởng thành, nhờ đó eros đạt được mức trọn vẹn, trở thành tình yêu theo ý nghĩa trọn vẹn của thuật ngữ. Để đạt được mức độ trưởng thành của tình yêu, cần có sự tham gia mọi sức lực của con người, có nghĩa là con người trong tổng thể của mình. Việc gặp gỡ với những biểu lộ hữu hình của tình yêu Thiên Chúa có thể gợi lên trong chúng ta cảm giác hân hoan, đến từ cảm nghiệm rằng mình được yêu. Việc gặp gỡ này đòi hỏi cả ý chí lẫn lý trí của chúng ta. Việc nhận biết Thiên Chúa hằng sống là con đường đi đến tình yêu và tiếng thưa vâng của ý chí chúng ta đối với ý muốn của Người kết hợp sự hiểu biết, ý chí và cảm xúc trở thành một hành động trọn vẹn của tình yêu. Đây rõ ràng là một tiến tình vẫn luôn chuyển động: tình yêu không bao giờ “kết thúc” và trọn vẹn được; tình yêu chuyển đổi trong suốt thời gian sống, chín dần và nhờ đó luôn trung thành với chính mình. Idem velle atque idem nolle[9] (ao ước một điều và không ao ước cũng một điều đó) là điệu cổ nhân định nghĩa nội dung của tình yêu: người này trở nên giống người kia, điều này đưa đến một sự hợp nhất của ý chí và tư tưởng. Lịch sử tình yêu giữa Thiên Chúa và con người bao hàm sự kiện: sự hiệp thông ý chí tăng triển trong hiệp thông tư tưởng và tình cảm, như thế ý muốn của chúng ta luôn trùng khớp với ý muốn của Thiên Chúa: ý muốn của Thiên Chúa không phải là ý muốn xa lạ đối với tôi, mà các giới luật áp đặt cho tôi từ bên ngoài, nhưng là ý muốn của chính tôi xuất phát từ kinh nghiệm cho thấy, trong thực tế, Thiên Chúa hiện diện rất thâm sâu trong tôi hơn là tôi đối với tôi[10]. Từ đó sự phó thác vào Thiên Chúa càng ngày càng lớn lên và Thiên Chúa thực sự trở thành niềm vui cho chúng ta (x. Tv 73[72], 23-28).
18. Tình yêu đối với tha nhân là khả thi theo ý nghĩa được chính Thánh Kinh xác định và do Đức Giêsu công bố. Tình yêu đó cốt tại chính điều này là, trong Thiên Chúa và cùng với Thiên Chúa, tôi yêu người thân cận, cả khi tôi không thích hoặc không biết người đó. Điều này chỉ trở nên khả thể từ cuộc gặp gỡ thâm sâu với Thiên Chúa, một sự gặp gỡ trở thành hiệp thông ý muốn và thâm nhập vào trong tình cảm. Bấy giờ tôi học cách nhìn người khác không phải chi bằng con mắt và tình cảm của riêng tôi, nhưng từ nhãn giới của Đức Giêsu Kitô. Bạn của Người là bạn của tôi. Vượt qua dáng vẻ bên ngoài, tôi thấy được nơi tha nhân sự chờ đợi một cử chỉ yêu thương, một cử chỉ quan tâm mà tôi cho họ, không chỉ qua những cơ quan được tổ chức vì mục đích ấy, chấp nhận họ như một nhu cầu chính trị. Tôi nhìn với đôi mắt của Đức Kitô và có thể trao ban cho tha nhân nhiều hơn là những vật cần thiết bên ngoài: đó là cái nhìn của tình yêu mà họ cần. Ở đây chúng ta thấy được tác động hỗ tương cần thiết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với con người mà Thư thứ nhất của Thánh Gioan nhấn mạnh dường ấy. Nếu cuộc đời tôi hoàn toàn thiếu vắng việc tiếp xúc với Thiên Chúa, lúc ấy tôi sẽ nhìn người khác như một kẻ xa lạ và không thể nhận ra hình ảnh Thiên Chúa nơi họ. Nhưng nếu tôi loại bỏ hoàn toàn ra khỏi đời tôi việc hướng đến kẻ khác, để chỉ trở thành “đạo đức”, chỉ để thực hiện những “phận vụ tôn giáo” của tôi, thì liên hệ với Thiên Chúa sẽ khô héo ở nơi tôi. Liên hệ này có thể “đúng đắn”, nhưng không có tình yêu. Chính sự sẵn sàng của tôi đến với người thân cặn, để minh chứng tình yêu đối với họ, sẽ làm cho tôi dễ cảm nghiệm Thiên Chúa. Chỉ có việc phục vụ tha nhân mở mắt cho tôi thấy điều Thiên Chúa làm cho tôi và Người đã yêu tôi như thế nào. Các vị thánh - chúng ta nhớ đến mẫu gương của chân phước Têrêsa thành Calcutta - múc lấy khả năng yêu thương của họ đối với tha nhân một cách mới mẻ từ việc tiếp xúc với Chúa trong Bí tích Thánh Thể và ngược lại sự tiếp xúc này trở thành hiện thực và sâu xa trong việc phục vụ tha nhân. Mến Chúa và yêu người không thể tách rời nhau được. Đó chỉ là một giới răn. Cả hai sống nhờ vào tình yêu của Thiên Chúa tuôn xuống chúng ta, Đấng luôn yêu thương chúng ta trước. Như thế sẽ không còn là “giới răn” tự bên ngoài, buộc chúng ta làm những gì không thể làm được, nhưng là một cảm nghiệm tình yêu được ban tặng từ bên trong một tình yêu mà tự bản chất phải được tiếp tục chia sẻ Tình yêu lớn lên nhờ tình yêu. Tình yêu mang tính thiên linh, vì từ Thiên Chúa mà đến và giúp chúng ta kết hợp với Thiên Chúa, và trong tiến trình kết hợp này, giúp chúng ta trở thành một “Chúng tôi”, vượt thắng mọi chia rẽ và làm cho chúng ta nên một, để rồi cuối cùng “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1Cr 15,28).
--Ghi chú--
[9] Sallust, De coniuratione Catilinae, XX, 4.
[10] x. Thánh Augustinô, Tự thuật,III, 6, 11 : CCL 27, 32.
-------------------------------
---Còn tiếp---