Thông điệp Deus Caritas Est - Thiên Chúa là tình yêu Của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI
Phần 4/8
“GỬI CÁC GIÁM MỤC, CÁC LINH MỤC VÀ PHÓ TẾ
CÁC TU SĨ NAM NỮ VÀ TẤT CẢ CÁC TÍN HỮU VỀ ĐỨC ÁI KITÔ GIÁO”
PHẦN THỨ HAI: CARITAS (TÌNH YÊU BÁC ÁI) – HOẠT ĐỘNG BÁC ÁI CỦA HỘI THÁNH NHƯ LÀ MỘT “CỘNG ĐOÀN CỦA TÌNH YÊU”
Hoạt động bác ái của Hội Thánh như cách thể hiện tình yêu mang đặc tính Chúa Ba Ngôi
19, Thánh Augustinô viết: “Nếu anh thấy tình yêu, anh thấy Ba Ngôi cực thánh”[11]. Trong những suy tư trên dây, chúng ta đã hướng cái nhìn của chúng ta vào cạnh sườn được khai mở của Đức Giêsu, nhìn vào Đấng “họ đã đâm thâu” (x. Ga 19,37; Dcr 12,10) và qua đó chúng ta có thể nhận ra kế hoạch của Chúa Cha, Đấng vì yêu (x. Ga 3,16) đã sai Con yêu dấu của mình đi vào trần gian, để cứu độ nhân loại. Trong cái chết trên thập tự, như thánh sử Gioan nhấn mạnh, Đức Giêsu đã “trao ban thần khí” (x. Ga 19,30) - khởi đầu cho quà tặng là Chúa Thánh Thần mà Người sẽ ban sau khi Phục Sinh (x Ga 20,22). Như thế lời hứa về “những dòng nước hằng sống” được ứng nghiệm, những dòng nước nhờ việc tuôn đổ Thánh Thần sẽ tuôn chảy từ nội tâm của các tín hữu (x. Ga 7,38-39). Chúa Thánh Thần là sức mạnh bên trong làm hòa nhịp trái tim của họ với trái tim của Đức Kitô và thúc đẩy họ yêu thương anh em mình như chính Đức Kitô đã yêu họ, khi Người cúi xuống để rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13,1-13) và đặc biệt khi Người hiến dâng mạng sống của mình cho tất cả (x. Ga 13,1 ; 15,1a).
Thánh Thần cũng là một sức mạnh chuyển đổi trái tim Cộng đoàn Giáo Hội, để Cộng đoàn trở thành chứng nhân cho tình yêu của Chúa Cha, Đấng muốn làm cho nhân loại trở thành một gia đình duy nhất trong Con của Người. Mọi hoạt động của Hội Thánh đều là sự biểu lộ một tình yêu muốn tìm sự thiện toàn vẹn cho con người: Hội Thánh nỗ lực Phúc Âm hoá con người qua lời và các bí tích - một công việc thường rất anh hùng khi thực hiện trong lịch sử - và tìm cách phát triển con người trong những lĩnh vực khác nhau của cuộc sống và sinh hoạt nhân văn. Như thế tình yêu trở thành việc phục vụ mà Hội Thánh thực hiện để luôn đáp ứng với những đau khổ và nhu cầu kể cả những nhu cầu vật chất của con người. Chính trên bình diện này, trên việc phục vụ tình yêu mà tôi muốn dừng lại trong phần hai của Thông điệp.
Hoạt động bác ái như trách nhiệm của Hội Thánh
20. Tình yêu tha nhân bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa trước tiên là trách nhiệm của từng người Kitô hữu, nhưng cũng là trách nhiệm của toàn thể cộng đoàn Hội Thánh, đó là nghĩa vụ của mọi cấp: từ cộng đoàn địa phương đến Giáo Hội cùng miền cho đến Hội Thánh hoàn vũ như một tổng thể. Hội Thánh, trên phương diện là cộng đoàn, phải thực thi bác ái. Để được như vậy đòi hỏi việc bác ái cũng có tổ chức như tiền đề cho một sự phục vụ chung có trật tự. Trong Hội Thánh, ngay từ ban đầu, ý thức về trách nhiệm này đã mang đặc tính xây dựng: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm cửa chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu” (Cv 2,44-45). Thánh Luca tường thuật cho chúng ta điều này, liên kết với một cách định nghĩa Hội Thánh, mà ngài kể ra vài yếu tố căn bản là sự trung thành với “giáo lý của các Tông đồ”, kiên trì trong sự “hiệp thông” (koinonia), với việc “bẻ Bánh” và việc “cầu nguyện” (x. Cv 2,42). Yếu tố “hiệp thông” (koinonia) ở đây không được triển khai thêm, nhưng được cụ thể hoá trong câu trích trên đây: sự hiệp thông của họ nằm ở chỗ các tín hữu xem tất cả của cải đều là của chung và giữa họ không có sự phân biệt giàu nghèo (x. Cv 4,32-37). Hình thức triệt để của việc hiệp thông vật chất không thể giữ được trước sự tăng triển của Hội Thánh. Nhưng điều cốt lõi vẫn còn tồn tại: giữa cộng đoàn các tín hữu không thể có sự nghèo đói, như việc có người bị từ chối những nhu cầu cần thiết cho một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm.
21. Việc tuyển chọn bảy người đàn ông, là khởi điểm cho phận vụ phó tế (x. Cv 6,5-6), cho thấy một bước quyết định trong việc tìm kiếm khó khăn những giải pháp để thực hiện nguyên tắc căn bản của Hội Thánh. Ở đây nói về sự bất bình đẳng trong việc chăm sóc hằng ngày cho các bà goá giữa nhóm nói tiếng Hípri và nhóm nói tiếng Hy Lạp trong Giáo Hội tiên khởi. Các vị Tông đồ, mang trách nhiệm “cầu nguyện” (Thánh lễ và phụng vụ) và “phục vụ lời”, cảm thấy việc “phục vụ bàn ăn” là quá tải đối với các ngài; các ngài quyết định vẫn tiếp tục với phận vụ căn bản của mình và thiết lập một nhóm bảy người đàn ông cho một phận vụ khác cần thiết trong Hội Thánh; dù vậy, nhóm này không phải chỉ làm một việc thuần túy kỹ thuật là phân phát: họ là những người “đầy Thần Khí và khôn ngoan” (x. Cv 6,1-6). Điều đó có nghĩa là, việc phục vụ xã hội mà họ lãnh nhận là một phận vụ rất cụ thể, nhưng đồng thời cũng là một việc phục vụ thiêng liêng, và chính vì thế, thừa tác vụ của họ thực sự là một thừa tác vụ thiêng liêng, thực hiện một trách vụ cơ bản của Hội Thánh - đó là tình yêu tha nhân có tổ chức. Với việc thiết lập nhóm bảy người này, công tác “diakonia” - việc phục vụ chung, có tổ chức, của tình yêu tha nhân - từ nay được thiết lập trong cơ cấu nền tảng của chính Hội Thánh.
22. Theo dòng thời gian và với sự bành trướng dần dần của Hội Thánh, việc thực thi bác ái, công tác Bác ái (caritas), được xác định như một lĩnh vực căn bản cùng với việc ban phát bí tích và việc rao giảng Lời Chúa: việc thực thi bác ái đối với các goá phụ và trẻ mồ côi, với các tù nhân, với các bệnh nhân và người túng thiếu dưới mọi hình thức, thuộc về bản chất của Hội Thánh cũng y như việc phục vụ bí tích và rao giảng Phúc Âm. Hội Thánh không thể chểnh mảng trong việc thực thi bác ái cũng như chểnh mảng với bí tích và Lời Chúa. Vài mẫu gương cũng đủ cho thấy điều này. Thánh Giustinô tử đạo (khoảng năm 155) đã diễn tả, trong bối cảnh cử hành ngày Chúa nhật của các tín hữu, công tác bác ái của họ, công tác này được nối kết với Bí tích Thánh Thể: những người khá giả ban phát theo khả năng của họ, mỗi người ban phát bao nhiêu tùy ý họ. Giám mục sử dụng lễ vật đó để nâng đỡ các trẻ mồ côi, các bà góa và những người, vì bệnh hoạn hay những lý do khác, đang bị túng quẫn, cũng như cho các tù nhân và cho những người ngoại kiều[12]. Đại văn sĩ Kitô giáo Tertullien (khoảng năm 220) kể lại, việc chăm sóc của các Kitô hữu đối với những người túng quẫn đủ mọi loại gây ngạc nhiên cho kẻ ngoại[13]. Và khi Thánh Inhaxiô thành Antiochia (năm 117) gọi “Giáo hội thành Roma” là “đứng đầu trong tình yêu (agape)”[14] thì chắc chắn rằng, ngài sử dụng cách nói này để làm nổi bật hoạt động bác ái cụ thể của Giáo Hội.
23. Trong bối cảnh này, cũng hữu ích khi nêu một chỉ dẫn về cơ cấu pháp lý xa xưa của công tác bác ái của Hội Thánh. Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 4, ở Ai Cập có một hình thức mà người ta gọi là “diakonie”; trong mỗi đan viện, có một tổ chức chịu trách nhiệm cho mọi hoạt động hỗ trợ chăm sóc - đó là công tác bác ái caritas. Tờ khởi thủy cho đến cuối thế kỷ thứ 6, ở Ai Cập, có một tổ chức với đầy đủ pháp lý, mà thẩm quyền thành phố trao cho một phần lúa thóc để phân phát công khai. Ở Ai Cập, không những các đan viện, mà cả từng giáo phận đều có tổ chức bác ái diakonie của mình - một cơ chế, được bành trướng không những ở Đông Phương mà cả ở Tây Phương. Đức Giáo hoàng Grêgôriô Cả (604) đề cập đến tổ chức bác ái của thành phố Naples; đối với thành phố Rôma, các tài liệu cho thấy tổ chức bác ái bắt đầu từ thế kỷ thứ 7 và thứ 8; thế nhưng, từ xa xưa và có lẽ ngay từ đầu, công tác chăm sóc kẻ nghèo và những người đau khổ là một phần đời sống căn bản của Hội Thánh tại Rôma, theo những nguyên tắc của đời sống Kitô hữu được trình bày trong sách Công vụ Tông đồ. Hình ảnh của vị phó tế Lôrenxô (258) đã biểu lộ trách nhiệm này một cách sống động. Bài tường thuật bi thảm cuộc tử đạo của ngài đã được Thánh Ambrôsiô (397) biết đến, cho chúng ta thấy chân dung đích thực của thánh nhân. Ngài chịu trách nhiệm việc chăm sóc người nghèo trong thành phố Rôma; sau khi các cộng sự của ngài cùng bị bắt với Đức Giáo hoàng, người ta để cho ngài một thời gian để gom góp tài sản của Hội Thánh để trao lại cho chính quyền thành phố. Lôrenxô phân phát tiền của đang có cho kẻ nghèo, rồi dẫn họ đến trước mặt chính quyền và giới thiệu những người này chính là kho tàng đích thực của Hội Thánh[15]. Người ta có thể suy nghĩ về tính chất xác thực theo lịch sử của bài tường thuật này - nhưng trong ký ức của người Kitô hữu, Thánh Lôrenxô vẫn được xem là nhân vật tiêu biểu cho công tác bác ái của Hội Thánh.
24. Đề cập đến gương mặt của vị hoàng đế Giulianô, người bội giáo (363), cũng có thể cho thấy tình yêu tha nhân được tổ chức và thực hành đối với Giáo Hội thời cổ cốt thiết dường nào. Khi lên sáu, chính Guilianô tận mắt chứng kiến đội bảo vệ hoàng cung sát hại cha, em và thân nhân của mình và gán hành động tàn bạo này - đúng hay sai chưa rõ - cho hoàng đế Constance, người tự cho mình là một Kitô hữu vĩ đại. Như thế niềm tin Kitô giáo mãi mãi bị mất uy tín đối với ông. Khi lên ngôi hoàng đế, ông quyết định tái lập ngoại giáo, tức là tôn giáo cổ của người La Mã, đồng thời canh tân tôn giáo này để nó có thể trở thành sức mạnh nâng đỡ đế quốc. Trong ý định này, ông phải vay mượn cách tổ chức của Kitô giáo. Ông thiết lập một hàng giáo phẩm gồm các thượng phụ và tư tế. Các tư tế phải chăm lo đến tình yêu đối với Thượng đế và tình yêu đối với tha nhân. Trong một lá thư[16], ông đã viết, một điều gây ấn tượng cho ông là công tác bác ái của Giáo Hội. Và do đó, ông cho là trong tôn giáo mới của ông, cần phải thiết lập một hoạt động tương tự, song song với hệ thống bác ái của Hội Thánh. Ông tuyên bố, chính nhờ hệ thống bác ái này mà những người “Galilê” đã thu phục được quần chúng. Phải làm y như họ và còn hơn họ. Qua tuyên bố đó, hoàng đế đã xác nhận việc thực thi bác ái, caritas, là một dấu chứng quyết định cho cộng đoàn Kitô hữu, cho Hội Thánh.
25. Về điểm này, chúng ta nắm vững hai nhận thức căn bản từ những suy luận của chúng ta:
a) Bản chất Hội Thánh được thể hiện qua một trách nhiệm có ba mặt: rao giảng Lời Chúa (kerygma-martyria) cử hành các Bí tích (leiturgia), phục vụ bác ái (diakonia). Đó là những trách nhiệm lệ thuộc vào nhau và không thể tách rời nhau được. Việc phục vụ bác ái đối với Hội Thánh không phải là một cách thức hoạt động trợ giúp có thể giao cho người khác, nhưng nó thuộc về bản chất của Hội Thánh, là một biểu lộ bản chất không thể từ bỏ được[17].
b) Hội Thánh là gia đình của Thiên Chúa giữa trần gian. Trong gia đình, không được phép có những người túng thiếu. Đồng thời caritas-agape phải vượt qua ranh giới của Hội Thánh: dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu vẫn phải là tiêu chuẩn, đòi buộc tính phổ quát của tình yêu, một tình yêu luôn hướng đến những người túng quẫn mà chúng ta “tình cờ” gặp gỡ (x. Lc 10,31), dù họ là ai đi nữa. Có một mệnh lệnh đặc biệt trong Hội Thánh không làm giảm đi tính phổ quát của giới răn tình yêu này - đó là, trong Hội Thánh như là một gia đình, không được phép để một ai phải túng quẫn. Những lời trích từ Thư gởi giáo đoàn Galát cũng nằm trong ý nghĩa này: “Vậy bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong đại gia đình đức tin” (Gl 6,10).
--Ghi chú--
[11] De Trinitate, Vlll, 8, 12 : CCL 50, 287.
[12] x. 1 Apologia, 67 : PG 6, 429.
[13] x. Apologeticum, 39, 7 : PL 1, 468.
[14] T. Inhaxiô thành Antiôkia, Thư gửi giáo đoàn Rôma : PG 5, 801.
[15] x. T. Amblôsiô, De Officiis ministrorum, ll, 28, 140 : PL 16, 141.
[16] x. Ep. 83 : J. Bidez, l’Empeureur Julien, Oeuvres complètes, Paris (1960), q. I, 2a, tr. 145.
[17] x. Thánh bộ các giám mục, Hướng dẫn thừa tác vụ mục vụ của các giám mục Apostolorum Successores (22.2.2004), 194, Vatican City 2004, tr. 213.
-------------------------------
---Còn tiếp---