Thông điệp Deus Caritas Est - Thiên Chúa là tình yêu Của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI
Phần 5/8
“GỬI CÁC GIÁM MỤC, CÁC LINH MỤC VÀ PHÓ TẾ
CÁC TU SĨ NAM NỮ VÀ TẤT CẢ CÁC TÍN HỮU VỀ ĐỨC ÁI KITÔ GIÁO”
PHẦN THỨ HAI: CARITAS (TÌNH YÊU BÁC ÁI) – HOẠT ĐỘNG BÁC ÁI CỦA HỘI THÁNH NHƯ LÀ MỘT “CỘNG ĐOÀN CỦA TÌNH YÊU”
Công bằng và bác ái
26. Từ thế kỷ thứ 19 nổi lên phong trào chống đối hoạt động bác ái của Hội Thánh, được tư tưởng Mácxít khai triển một cách rõ ràng. Việc chống đối này cho rằng người nghèo không cần đến những công tác bác ái, nhưng đòi hỏi công bằng. Những việc bác ái - việc bố thí - trong thực tế chỉ là cách thức để người giàu bỏ qua việc tái lập công bằng, ru ngủ lương tâm, bảo vệ vị trí riêng của mình và tước đi quyền lợi của người nghèo. Thay vì củng cố nguyên trạng bằng các việc bác ái, nên tạo một trật tự công bằng, trong đó mọi người được dự phần vào của cải trần thế và từ đó không cần đến các việc bác ái. Có thể chấp nhận vài điểm trong lý luận này, nhưng nhiều điểm lại sai lệch. Chắc chắn nguyên tắc nền tảng của Nhà nước là theo đuổi sự công bằng và mục đích của một trật tự xã hội công bằng là bảo đảm cho mỗi người có phần của mình trong số của cải của Cộng đoàn, trong sự tôn trọng nguyên tắc phụ đới. Đó là điều mà các quốc gia Kitô giáo và học thuyết xã hội của Giáo Hội luôn nhấn mạnh. Dựa theo lịch sử, vấn nạn về trật tự công bằng của tập thể bước vào một giai đoạn mới cùng với việc kiến tạo xã hội công nghiệp vào thế kỷ thứ 19. Việc xuất hiện kỹ nghệ tân tiến đã khai tử trật tự xã hội cũ, và cùng với khối người lao động bị lệ thuộc vào đồng lương, đã đưa đến việc thay đổi cách triệt để việc tổ chức xã hội, trong đó tương quan giữa tư bản và công việc trở thành vấn nạn quyết định, một vấn nạn, dưới hình thức này, cho đến lúc đó chưa từng có. Các cơ chế sản xuất và tư bản từ nay trở thành quyền lực mới, nếu nằm trong tay một số ít người, sẽ đưa đến tình trạng khối người lao động siêng năng bị bóc lột quyền lợi và sẽ nổi dậy để chống lại.
27. Phải công nhận rằng các vị đại diện Hội Thánh thật chậm trễ khi nhận ra vấn nạn về cơ cấu công bằng của xã hội được đặt ra cách mới mẻ. Đã có những vị đi mở đường; tỷ dụ một trong các vị là Đức Giám Mục Ketteler của địa phận Mainz (+1877). Để đáp lại những nhu cầu cụ thể, đã xuất hiện các nhóm, những hiệp hội, những liên hiệp, những phong trào, đặc biệt là những dòng tu mới, vào thế kỷ thứ 19, đã dấn thân chống lại nghèo đói, bệnh tật và tình trạng thiếu thốn trong lĩnh vực giáo dục. Vào năm 1891, Huấn quyền đã đưa ra Thông điệp Tân Sự (Rerum Novarum) của Đức Giáo hoàng Lêô XIII. Tiếp theo vào năm 1931 là Thông điệp Năm thứ Bốn Mươi (Quadragesimo Anno) của Đức Giáo hoàng Piô XI. Đức chân phước Gioan XXIII đã ban hành Thông điệp Mẹ và Thầy (Mater et Magistra) vào năm 1961. Trong Thông điệp Phát triển các Dân tộc (Populorum Progressio) (1967) và trong Tông Thư Năm thứ Tám Mươi đang đến (Octogesima Adveniens) (1971), Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã đề cập mạnh mẽ đến vấn đề xã hội, lúc đó đang nóng bỏng cách đặc biệt tại Châu Mỹ La Tinh. Vị tiền nhiệm vĩ đại của tôi là Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã để lại cho chúng ta bộ ba Thông điệp xã hội: Lao động (Laborem Exercens) (1981), Bận tâm về Vấn đề Xã hội (Sollicitudo Rei Socialis) (1987), cuối cùng là Thông điệp Bách Chu niên (Centesimus Annus) (1991). Đối mặt với những hoàn cảnh và những vấn đề mới, giáo huấn xã hội của Công giáo đã dần dần phát triển; vào năm 2004, giáo huấn này được trình bày trong quyển “Tóm lược Giáo huấn Xã hội của Hội Thánh” do “Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hoà bình” xuất bản. Chủ thuyết Mácxít đã cho cuộc cách mạng thế giới và việc chuẩn bị cuộc cách mạng này như là thần dược cho vấn đề xã hội: theo chủ thuyết này, nhờ cách mạng, kéo theo việc tập thể hoá các phương tiện sản xuất, tất cả sẽ lập tức thay đổi và sẽ tốt hơn. Giấc mộng này bị tan vỡ. Trong hoàn cảnh khó khăn mà chúng ta đang sống qua việc toàn cầu hoá kinh tế, giáo huấn xã hội của Hội Thánh sẽ trở thành điểm quy chiếu căn bản, đề nghị các định hướng có giá trị vượt quá ranh giới Hội Thánh. Đối mặt với sự phát triển liên tục, các định hướng này cần được trao đổi với những người thật sự quan tâm đến con người và thế giới.
28. Để xác định cách chính xác mối liên hệ giữa sự dấn thân cần thiết cho công bằng và việc phục vụ cho tình yêu, phải chú ý đến hai hoàn cảnh căn bản:
a) Trật tự công bằng của xã hội và của Nhà nước là trách nhiệm chính yếu của chính trị. Một Nhà nước, nếu không được tổ chức theo sự công bằng sẽ chỉ là một nhóm trộm cướp như Thánh Augustinô có lần đã nói: “Remota itaque iustitia quid sunt regna nisi magna latrocinia?”[18]. Việc phân biệt giữa điều gì thuộc về César và điều gì thuộc về Thiên Chúa (x. Mt 22,21), có nghĩa là sự phân biệt giữa Nhà nước và Hội Thánh hay, như Công đồng Vatican II nói, sự độc lập của bình diện trần thế[19], thuộc về cơ cấu căn bản của Kitô giáo. Nhà nước không được áp đặt tôn giáo, nhưng phải bảo đảm sự tự do, cũng như sự hoà bình giữa các tín đồ của những tôn giáo khác nhau; về phần mình, Hội Thánh như một biểu lộ xã hội của niềm tin Kitô giáo có sự độc lập của mình và dựa trên nền tảng đức tin, sống hình thức cộng đoàn của mình mà Nhà nước phải tôn trọng. Hai lĩnh vực phân biệt nhau, nhưng luôn liên kết hỗ tương với nhau. Công bằng là mục đích và từ đó cũng là tiêu chuẩn nội tại của mọi thứ chính trị. Chính trị không phải chỉ là kỹ thuật cho việc thiết lập các trật tự công cộng: nguồn gốc và mục đích của chính trị chính là sự công bằng và công bằng thuộc bản chất đạo đức. Vì thế Nhà nước luôn phải đối mặt với câu hỏi: phải thực hiện sự công bằng ở đây và ngay bây giờ như thế nào? Nhưng câu hỏi này giả thiết một câu hỏi khác căn bản hơn: công bằng là gì? Đây là một câu hỏi của lý trí thực tiễn; để cho lý trí hoạt động cách đúng đắn, lý trí phải luôn được thanh luyện, vì sự mù quáng về mặt đạo đức, xuất phát từ cám dỗ về lợi nhuận và quyền lực, sẽ làm loá mắt lý trí, trở thành một mối nguy hiểm rất khó loại bỏ cách hoàn toàn.
Về điểm này, chính trị và đức tin gặp nhau. Chắc chắn rằng đức tin có bản chất riêng của mình như là cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống - một cuộc gặp gỡ khai mở cho chúng ta những chân trời mới vượt quá bình diện lý trí của chúng ta. Nhưng đức tin cũng đồng thời là một sức lực thanh luyện cho lý trí. Xuất phát từ quan điểm của Thiên Chúa, đức tin giải thoát lý trí khỏi những mù quáng và nhờ đó giúp cho lý trí được tốt hơn. Đức tin giúp lý trí có khả năng thực hiện công việc của mình tốt hơn và nhìn thấy những gì đặc thù của mình rõ nét hơn. Chính đây là nơi giáo huấn xã hội của Kitô giáo dấn thân vào: giáo huấn này không muốn tạo cho Hội Thánh một quyền lực đứng trên Nhà nước; cũng không muốn áp đặt cho những người không cùng chia sẻ niềm tin những quan điểm và những cách thức chỉ dành riêng cho những người có đức tin; nhưng chỉ muốn đóng góp vào việc thanh luyện lý trí và giúp lý trí nhận ra điều gì đúng đắn ở đây và lúc này để có thể thi hành.
Giáo huấn xã hội của Hội Thánh lập luận dựa trên lý trí và luật tự nhiên, có nghĩa là từ những gì thích hợp với bản tính con người. Giáo huấn này biết rằng đây không phải là trách nhiệm của Hội Thánh để áp đặt giáo huấn này bằng chính trị: giáo huấn này chỉ muốn phục vụ và giúp đỡ việc giáo dục lương tâm trong chính trị, giúp nhận thức rõ ràng những đòi hỏi đích thực của công bằng, đồng thời sẵn sàng để hành động, cả khi điều này có nghịch lại với những lợi ích riêng tư. Việc xây dựng một trật tự xã hội và trật tự Nhà nước công bằng, nhờ đó mà mỗi người nhận được phần của mình, là một trách nhiệm căn bản mà mỗi thế hệ phải luôn đặt ra một cách mới mẻ. Vì đây là trách nhiệm căn bản của con người, nên Hội Thánh có bổn phận phải đóng góp qua việc thanh luyện lý trí và huấn luyện đạo đức, để con người có thể mau mắn nhận ra những đòi hỏi của công bằng và thực thi về mặt chính trị.
Hội Thánh không thể và cũng không được phép tham gia vào cuộc tranh chấp chính trị để thực hiện một xã hội công bằng nhất. Hội Thánh không thể và không được phép thay thế vị trí của Nhà nước, nhưng không thể và không được phép đứng bên ngoài cuộc đấu tranh cho công bằng. Hội Thánh phải dấn thân vào cuộc đấu tranh này bằng con đường lý luận dựa theo lý trí và phải đánh thức những sức mạnh tinh thần, nếu không có những sức mạnh này thì sự công bằng, vốn luôn đòi hỏi sự hy sinh, không thể được thực thi và phát triển. Xã hội công bằng không thể là công trình của Hội Thánh, nhưng phải được chính trị thực hiện. Dù vậy, cố gắng để có được sự công bằng nhờ việc soi sáng nhận thức và ý chí cho những đòi buộc của các điều thiện hảo là điều Hội Thánh rất tha thiết.
b) Tình yêu - caritas - vẫn luôn cần thiết, ngay cả trong xã hội công bằng nhất. Không có một trật tự công bằng của Nhà nước nào có thể xem công tác bác ái là thừa thãi. Ai muốn loại bỏ tình yêu thì cũng đồng thời không xem con người là con người nữa. Vẫn luôn luôn có khổ đau cần đến sự an ủi và trợ giúp. Vẫn luôn luôn còn có sự cô đơn. Vẫn luôn luôn còn có những trường hợp thiếu thốn vật chất, nơi mà sự trợ giúp theo nghĩa thực hiện tình yêu tha nhân là cần thiết[20]. Nhà nước nào muốn chu cấp tất cả, tập trung tất cả về mình, cuối cùng cũng chỉ trở thành một cơ chế bàn giấy, không thể bảo đảm những gì thiết yếu cho những người đau khổ - cũng như cho mọi người: đó là sự quan tâm đầy tình thương cho từng cá nhân. Chúng ta không cần một Nhà nước quy định và thống trị tất cả, nhưng ngược lại, một Nhà nước thích ứng với nguyên tắc bổ trợ, công nhận và hỗ trợ cách quảng đại cho những sáng kiến xuất phát từ những sức mạnh xã hội khác nhau và phối hợp tính bộc phát để gần gũi với những con người cần được trợ giúp. Hội Thánh là một sức mạnh sống động như thế. Trong Hội Thánh, năng động của tình yêu được triển khai từ Thánh Thần của Đức Kitô đang hoạt động, tình yêu này mang đến cho con người không những sự hỗ trợ vật chất, nhưng còn củng cố tinh thần và cứu chữa, là điều còn cần thiết hơn các hỗ trợ vật chất. Định kiến cho rằng, những cơ cấu công bằng sẽ xem các hoạt động bác ái là không cần thiết, thật sự che giấu một hình ảnh con người theo hướng duy vật: một niềm tin lệch lạc, cho rằng con người chỉ sống bằng “cơm bánh” (Mt 4,4; x. Đnl 8,3) một quan niệm chà đạp con người và vì thế không nhận ra tính nhân bản đặc thù của con người.
29. Bây giờ chúng ta có thể xác định cách chính xác liên hệ một mặt giữa việc đấu tranh cho trật tự công bằng của Nhà nước và xã hội và mặt khác là hoạt động bác ái có tổ chức của Hội Thánh. Bây giờ thì rõ, việc xây dựng những cơ cấu công bằng không phải là trách nhiệm trực tiếp của Hội Thánh, nhưng thuộc về chính trị - là bình diện của lý trí tự chịu trách nhiệm. Hội Thánh trong vấn đề này chỉ có trách nhiệm gián tiếp thuộc về mình là việc thanh luyện lý trí và gợi lên những động lực đạo đức mà không can dự vào việc xây dựng những cơ cấu công bằng và lo cho các cơ cấu này hoạt động lâu dài.
Trách nhiệm trực tiếp để hoạt động cho một trật tự công bằng trong xã hội, ngược lại là điều đặc thù của người giáo dân. Là công dân, họ được kêu gọi tham gia cá nhân vào đời sống cộng đồng. Vì thế, họ không được từ chối tham gia vào “những sáng kiến đa dạng và khác biệt trên những bình diện kinh tế, xã hội, luật pháp, hành chính và văn hoá, tất cả bình diện này đều phục vụ cho việc thực thi có tổ chức và cơ chế cho công ích.”[21] Trách nhiệm của người giáo dân định dạng cho đời sống xã hội theo một cách thức đúng đắn, trong đó phải tôn trọng sự độc lập chính đáng và cộng tác với các công dân khác tuỳ theo chuyên môn của mỗi người và trách nhiệm riêng của họ[22]. Cho dù những hình thức biểu lộ đặc biệt của công tác bác ái của Hội Thánh không bao giờ bị lẫn lộn với hoạt động của Nhà nước, thì điều rõ ràng là tình yêu phải là động lực sống động cho toàn bộ đời sống của người giáo dân và từ đó in dấu trên hoạt động chính trị của họ theo nghĩa một “tình yêu mang tính xã hội.”[23]
Những tổ chức bác ái của Hội Thánh ngược lại trình bày - công tác đặc thù (opus proprium) của Hội Thánh, một trách nhiệm đi đúng với bản chất của mình, trong dó Hội Thánh không phải cộng tác kiểu đứng bên lề, nhưng như là một chủ thể trực tiếp chịu trách nhiệm hoạt động và thực hiện điều thích ứng với bản chất của mình. Hội Thánh không được chuẩn chước cho mình khỏi việc thực hiện công tác bác ái như là hoạt động tập thể có tổ chức của giáo dân, mặt khác, không có hoàn cảnh nào, trong đó người ta không cần đến bác ái của từng người Kitô hữu, chỉ vì, con người, vượt trên sự công bằng, luôn cần đến tình yêu.
--Ghi chú--
[18] De Civitate Dei, IV, 4 : CCL 47, 102.
[19] x. Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes về Hội Thánh trong Thế giới ngày nay, 36.
[20] x. Thánh bộ các Giám mục. Hướng dẫn thừa tác vụ mục vụ của các Giám Mục Apostolorum Successores (22.2.2004), 197, Vatican city 2004, tr. 217.
[21] ĐGH. Gioan Phaolô ll, Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Christifideles Laici (30.12.1988), 42 : AAS 81 (1989), 472.
[22] x. Thánh bộ Giáo lý Đức tin, Doctrinal Note on Some questions Regarding the participation of Catholics in Political Life (24.11.2002), 1: L’Osservatore Romano English edition, 22.11.2003, tr. 5.
[23] Giáo lý Hội Thánh Công giáo 1939.
-------------------------------
---Còn tiếp---