Ngày tháng: 15/01/2025
Đang truy cập: 8

ĐGH Benedict XVI, Thông điệp Deus Caritas Est - Phần 6/8 - 2023

Thông điệp Deus Caritas Est - Thiên Chúa là tình yêu Của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI

Phần 6/8 

“GỬI CÁC GIÁM MỤC, CÁC LINH MỤC VÀ PHÓ TẾ

CÁC TU SĨ NAM NỮ VÀ TẤT CẢ CÁC TÍN HỮU VỀ ĐỨC ÁI KITÔ GIÁO”

 

PHẦN THỨ HAI: CARITAS (TÌNH YÊU BÁC ÁI) – HOẠT ĐỘNG BÁC ÁI CỦA HỘI THÁNH NHƯ LÀ MỘT “CỘNG ĐOÀN CỦA TÌNH YÊU”

 

Những cơ cấu đa dạng của việc phục vụ bác ái trong bối cảnh xã hội ngày nay

30. Trước khi thử tìm cách định nghĩa hình dạng đặc thù của các hoạt động Giáo Hội trong việc phục vụ con người, tôi muốn nhìn hoàn cảnh chung trong việc phấn đấu cho công bằng và bác ái trong thế giới ngày nay.

a) Ngày nay các phương tiện truyền thông đại chúng đã làm cho hành tinh của chúng ta bé lại, bằng cách làm cho những con người và những nền văn hoá khác biệt nhất mau chóng gần gũi với nhau. Cho dù việc “sống chung” này đôi khi đưa đến hiểu lầm và căng thẳng, nhưng có một thực tế là, người ta có cảm nhận nhu cầu của con người cách trực tiếp hơn, nhất là lời mời gọi chia sẻ hoàn cảnh và những khó khăn của họ. Mỗi ngày chúng ta càng ý thức hơn, có quá nhiều đau khổ trên thế giới do sự thiếu thốn vật chất cũng như tinh thần gây nên, dù cho có nhiều tiến bộ về mặt khoa học và kỹ thuật. Từ đó, ngay trong thời đại chúng ta, đòi hỏi cần có sự sẵn sàng mới mẻ để giúp đỡ người thân cận đang túng quẫn. Công đồng Vatican II đã nói những lời rõ ràng như sau: “Ngày nay, nhờ những phương tiện truyền thông hoàn thiện hơn, những khoảng cách giữa con người có thể nói là đã vượt qua, [...] hoạt động bác ái có thể và phải bao trùm tất cả mọi người và tất cả mọi nhu cầu.”[24]

Mặt khác - và đây là một phương diện vừa thách thức vừa động viên của việc toàn cầu hoá - chúng ta có trong tay không biết bao nhiêu là phương tiện để sử dụng hầu đem lại sự trợ giúp nhân bản cho anh chị em đang túng quẫn, đặc biệt là các hệ thống tân tiến để phân phát lương thực và quần áo cũng như sẵn sàng cho các khả năng đón nhận và cung cấp nơi trú ngụ. Như thế việc chăm sóc tha nhân vượt qua ranh giới các tập thể của quốc gia, để lan rộng đến mọi chân trời của thế giới này. Công đồng Vatican II đã nhận định cách đúng đắn: “Trong các dấu chỉ của thời đại chúng ta, phải đặc biệt chú ý tới ý thức ngày gia tăng và không thể tránh được về tình hình liên đới giữa các dân tộc.”[25] Những cơ quan của Nhà nước và các các hiệp hội nhân đạo hỗ trợ cho các sáng kiến theo chiều hướng này, bằng cách trợ cấp hay giảm thuế cho những người này, còn những người khác thì cho họ sử dụng phương tiện tài chính thích đáng. Với cách thức này, sự liên đới được xã hội dân sự thể hiện vượt qua liên đới của từng cá nhân một cách có ý nghĩa.

b) Trong hoàn cảnh này đã xuất hiện và phát triển rất nhiều hình thức cộng tác giữa các cơ quan Nhà nước và Giáo Hội, việc cộng tác này đã mang lại nhiều kết quả. Các cơ quan của Giáo Hội, nhờ sự trong sáng trong hoạt động và việc chu toàn cách trung tín trách nhiệm làm chứng cho tình yêu, có thể làm sinh động các cơ quan dân sự bằng tinh thần Kitô giáo và đòi buộc một sự cộng tác hỗ tương làm lợi cho hiệu quả việc phục vụ bác ái[26]. Trong liên hệ này, đã có nhiều tổ chức được thành lập với mục đích bác ái và từ thiện, để đối mặt với những vấn đề chính trị và xã hội hiện hành, có thể đạt được những giải quyết thoả đáng trong lĩnh vực nhân đạo. Một hiện tượng quan trọng trong thời đại chúng ta là việc xuất hiện và phát triển nhiều hình thức thiện nguyện khác nhau, đảm nhận rất nhiều công tác phục vụ đa dạng[27]. Ở đây, tôi muốn nói một lời đặc biệt để công nhận và biết ơn tất cả những người tham gia vào những hình thức khác nhau của công tác này. Việc triển khai một sự dấn thân như thế đối với giới trẻ là một trường học cho cuộc sống, đào tạo tình liên đới và sự sẵn sàng, không phải chỉ ban tặng một cái gì, nhưng là chính bản thân mình. Thứ văn hóa đối kháng của sự chết, tỷ như bộc lộ qua ma túy, sẽ chạm trán với tình yêu, một thứ tình yêu không đi tìm chính bản thân, nhưng sẵn sàng “tự đánh mất mình đi” cho kẻ khác (x. Lc 17,33 tt), tự minh chứng mình là một văn hoá của sự sống.

Những hình thức mới mẻ của những hoạt động bác ái phát sinh trong Hội Thánh Công giáo và trong những Giáo hội khác cũng như trong các cộng đoàn, những hình thức cũ cũng được phát triển với sức lực mới – những hình thức, trong đó thường có sự nối kết thật tốt đẹp giữa việc Phúc Âm hoá và hoạt động bác ái. Tôi muốn công khai xác nhận ở đây điều mà vị tiền nhiệm vĩ đại của Tôi là Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết trong Thông điệp Bận tâm về Vấn đề Xã hội (Sollicitudo Rei Socialis)[28], khi ngài tuyên bố Giáo Hội Công giáo luôn sẵn sàng cộng tác với các tổ chức bác ái của các Giáo hội và cộng đoàn Giáo hội, vì tất cả chúng ta hoạt động từ một động lực nền tảng và có cùng mục đích trước mắt: một chủ nghĩa nhân bản đích thực, chủ thuyết này công nhận hình ảnh Thiên Chúa nơi con người và muốn giúp họ có được một cuộc sống xứng đáng với phẩm giá này. Thông điệp Xin cho họ nên một (Ut Unum Sint) nhấn mạnh một lần nữa, cần có một tiếng nói chung của các Kitô hữu và sự dấn thân của họ cho sự phát triển một thế giới tốt đẹp hơn, để “tôn trọng các quyền lợi và nhu cầu của mọi người, nhất là của những người nghèo, những kẻ thấp kém, đạt được thành công.”[29] Ở đây, tôi muốn bộc lộ niềm vui của tôi vì điều ao ước này đã gặp được nhiều âm vang trong toàn thế giới qua rất nhiều sáng kiến.

Khía cạnh đặc biệt của công tác bác ái của Hội Thánh.

31. Việc gia tăng nhiều tổ chức dấn thân cho con người trong những nhu cầu khác biệt, cuối cùng được giải thích như sau: mệnh lệnh của tình yêu tha nhân đã được Đấng Sáng Tạo khắc ghi trong bản tính con người. Dù vậy, việc gia tăng cũng là kết quả sự hiện diện của Kitô giáo giữa trần gian, sự hiện diện này vẫn luôn đánh thức mệnh lệnh thường bị lu mờ trong dòng lịch sử và giúp đem lại kết quả: cuộc canh tân ngoại giáo do Hoàng đế Giulianô, kẻ bội giáo, là một tỉ dụ xa xưa cho hiệu quả đó. Trong ý nghĩa này, sức mạnh của Kitô giáo vươn ra khỏi ranh giới niềm tin Kitô giáo. Điều quan trọng hơn nữa là hoạt động bác ái của Kitô giáo giữ được sức mạnh soi sáng trọn vẹn của mình, chứ không bị tan biến như một dạng hỗ trợ chung chung. Vậy thì đâu là những yếu tố nền tảng tạo thành bản chất của hoạt động bác ái thuộc Kitô giáo và thuộc Giáo Hội?

a) Theo mẫu gương trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu, hoạt động bác ái mang đặc tính Kitô giáo trước hết là lời đáp trả nhu cầu khẩn cấp trực tiếp trong một hoàn cảnh cụ thể. Phải cho người đói lương thực, người trần truồng quần áo, bệnh nhân phải được chữa trị, phải thăm viếng tù nhân... Các tổ chức bác ái của Hội Thánh - khởi đầu với các cơ quan caritas (thuộc giáo phận, quốc gia và quốc tế) - phải thực hiện tất cả khả năng của mình, để sẵn sàng có các phương tiện, nhưng nhất là các nhân sự, để có thể đảm nhận những trách nhiệm như thế. Ai muốn phục vụ cho những người đau khổ, cần phải được đào tạo có nghiệp vụ: những người trợ giúp phải được đào tạo, để họ thực hiện những hành động đúng đắn vào đúng lúc và tiếp tục chăm sóc. Khả năng nghề nghiệp là điều cần thiết đầu tiên và căn bản, thế nhưng duy chỉ như thế thì không đủ. Ở đây nhắm đến con người, và con người luôn cần đến một cái gì hơn là sự chăm sóc đúng đắn đầy kỹ thuật. Họ còn cần đến tình người. Họ cần đến sự quan tâm của con tim. Đối với tất cả những ai hoạt động trong các tổ chức bác ái của Hội Thánh, phải chú tâm đặc biệt để không những thực hiện những gì cần thiết đúng lúc, nhưng còn phải quan tâm đến kẻ khác bằng con tim, để người này có thể cảm nhận được sự phong phú của phẩm giá nhân bản của họ. Vì thế, những người trợ giúp này, ngoài việc đào tạo nghề nghiệp, còn cần đến việc đào luyện con tim: họ cần được hướng dẫn đến gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Kitô, cuộc gặp gỡ này sẽ đánh thức tình yêu trong họ và mở rộng con tim của họ cho tha nhân, đến độ tình yêu tha nhân đối với họ không còn là một giới răn được thiết đặt tự bên ngoài, nhưng đó là bước tiếp nối của đức tin, chính đức tin đó: hoạt động trong tình yêu (x. Gl 5,6).

b) Hoạt động bác ái Kitô giáo phải độc lập khỏi các đảng phái và ý thức hệ. Hoạt động này không phải là phương tiện để thay đổi bộ mặt trần gian được định hướng theo ý thức hệ và cũng không để phục vụ cho các chiến lược trần thế, nhưng để thực hiện tình yêu tại đây và bây giờ mà con người luôn cần đến. Thời đại mới, nhất là từ thế kỷ 19, bị các biến thể của một thứ triết học về tiến bộ thống trị, mà hình thức triệt để nhất là chủ thuyết Mácxít. Lý thuyết bần cùng hoá thuộc về chiến lược của thuyết này, Chủ thuyết này cho rằng ai giúp đỡ con người trong hoàn cảnh dưới một sự lãnh đạo bất công, thì cũng đồng nghĩa với việc phục vụ cho hệ thống bất công hiện hành, làm cho hệ thống có vẻ như có thể chịu đựng được, ít nhất là đến một mức độ nào đó. Như thế gần như là ngăn chặn khả năng cách mạng và qua đó cũng ngăn chặn luôn việc chuyển đổi để đạt một thế giới tốt đẹp hơn. Vì thế việc dấn thân vào bác ái bị tố giác và tấn công như củng cố cơ chế. Trong thực tế, đó là một thứ triết học vô nhân đạo. Con người hiện đang bị tế hiến cho một thần Moloch của tương lai, mà việc xây dựng tương lai này còn quá mù mờ. Thực ra, không thể nhân bản hoá thế giới khi từ chối hành động cách nhân đạo ở đây và bây giờ. Để có thể đạt được một thế giới tốt đẹp hơn, người ta phải thực hiện điều thiện với tất cả sự đam mê ở nơi có thể thực hiện được, độc lập khỏi mọi chiến lược và chương trình của đảng phái. Chương trình của người Kitô hữu – chương trình của người Samaritanô nhân hậu, chương trình của Đức Giêsu - là “trái tim biết nhìn”. Trái tim này nhìn ra nơi nào cần tình yêu và hoạt động dựa theo đó. Khi hoạt động bác ái của Hội Thánh được thực hiện như sáng kiến của tập thể, thì kế hoạch, dự đoán và sự cộng tác với những tổ chức khác tương tự cần thiết hơn là sự tự phát của cá nhân.

c) Ngoài ra, tình yêu bác ái thực tiễn không phải là phương tiện cho điều mà ngày nay người ta gọi là chiêu dụ tín đồ (proselytismus). Tình yêu thì nhưng không; tình yêu không được thực hiện để đạt mục đích khác[30]. Điều này không có nghĩa công việc bác ái phải để Thiên Chúa và Đức Kitô qua một bên. Chủ đích là nhắm đến con người trọn vẹn. Thường thì việc vắng bóng Thiên Chúa là nguyên do sâu xa của đau khổ. Ai hoạt động bác ái nhân danh Hội Thánh, không bao giờ tìm cách áp đặt lên kẻ khác niềm tin của Hội Thánh: Người đó phải biết rằng tình yêu trong sự thuần khiết và vô tư là chứng cứ tốt nhất về Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta tin và thúc đẩy chúng ta yêu thương. Người Kitô hữu biết lúc nào có thể nói về Thiên Chúa, lúc nào thì nên thinh lặng và chỉ nói về tình yêu mà thôi. Người đó biết, Thiên Chúa là Tình Yêu (x. 1Ga 4,8) và ngay lúc này Người đang hiện diện trong lúc tình yêu được thực hiện chứ không phải bất cứ điều gì khác. Người đó biết - để trở lại với câu hỏi được đặt ra ở trên - khinh thị tình yêu là khinh thị Thiên Chúa và con người - đó là cố gắng vượt ra ngoài Thiên Chúa. Vì thế, việc bảo vệ Thiên Chúa và con người cách tốt nhất nằm ngay trong tình yêu. Trách nhiệm của các tổ chức bác ái của Hội Thánh là củng cố ý thức này nơi các đại diện của mình, để họ trở thành chứng nhân của Đức Kitô qua hành động cũng như lời nói, sự thinh lặng và mẫu gương của họ.

 

     --Ghi chú--

[24] Sắc lệnh Apostolicam Actuositatem về Tông đồ Giáo dân, 8.

[25] Ibid., 14.

[26] x. Thánh bộ các Giám mục, Hướng dẫn thừa tác vụ mục vụ của các giám mục Apostolorum Successores (22.2.2004), 195, Vatican City 2004, tr. 214-216.

[27] x. ĐGH. Gioan Phaolô ll, Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Christifideles Laici (30.12.1988), 41 : AAS 81 (1989) 470-472.

[28] x. số 32 : AAS 80 (1988) 556.

[29] Số 43 : AAS 87 (1995), 946.

[30] x. Thánh bộ các Giám mục, Hướng dẫn thừa tác vụ mục vụ của các giám mục Apostolorum Successores (22.2.2004), 196, Vatican City 2004, tr. 216.

-------------------------------

---Còn tiếp---

zalo
zalo