Thông điệp Fratelli Tutti về tình huynh đệ và tình bằng hữu xã hội - Phần 3/20
THÔNG ĐIỆP FRATELLI TUTTI CỦA THÁNH PHANXICO ASSISI VỀ TÌNH HUYNH ĐỆ VÀ TÌNH BẰNG HỮU XÃ HỘI
CHƯƠNG MỘT: BÓNG TỐI CỦA MỘT THẾ GIỚI KHÉP KÍN
TOÀN CẦU HÓA VÀ SỰ TIẾN BỘ KHÔNG CÓ LỘ TRÌNH CHUNG
29. Vị Đại giáo trưởng Ahmad Al-Tayyeb và tôi không phải là không biết đến những thành tựu đã đạt được, nhất là tại những nước đang phát triển, trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, y tế, công nghiệp và phúc lợi. Tuy nhiên, “chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng, cùng với các tiến bộ lớn lao, có giá trị và mang tính lịch sử này, cũng đang diễn ra tình trạng suy thoái đạo đức, ảnh hưởng đến các hoạt động quốc tế và làm cho những giá trị tinh thần cùng ý thức trách nhiệm bị suy yếu đi. Tất cả những điều này góp phần lan rộng một cảm giác nói chung là chán nản, đơn độc và tuyệt vọng. [...] Những điểm nóng đối kháng phát sinh, kho vũ khí và đạn dược được tăng cường, trong bối cảnh thế giới đầy tràn những bất ổn, thất vọng, lo sợ tương lai, hơn nữa còn bị lèo lái bởi những lợi ích kinh tế hạn hẹp”. Chúng tôi cũng chú ý đến “những cuộc khủng hoảng chính trị nổi bật, những bất công và tình trạng thiếu công bằng trong việc phân phối nguồn tài nguyên thiên nhiên. [...] Đối diện với các cuộc khủng hoảng trên, khiến hàng triệu trẻ em gầy gò trơ xương chết vì nghèo đói, mà trên bình diện quốc tế chỉ thấy bao trùm một sự im lặng không thể chấp nhận.”[27] Trước bức tranh toàn cảnh này, dù với nhiều tiến bộ không thể phủ nhận, cũng không thấy có một lộ trình thực sự mang tình người.
30. Trong thế giới ngày nay, cảm thức thuộc về một gia đình nhân loại duy nhất ngày càng phai nhạt, và giấc mơ cùng chung tay xây dựng công lý và hòa bình dường như là điều không tưởng, lỗi thời. Ngự trị thay vào đó là sự lãnh đạm tiện lợi, lạnh lùng và bao trùm, phát sinh từ mối thất vọng sâu xa, mối thất vọng được che giấu bởi sự xảo trá của ảo tưởng tin rằng chúng ta toàn năng, mà không nhận thấy tất cả chúng ta đều trên cùng một con thuyền. Ảo tưởng này chẳng quan tâm gì đến những giá trị cao cả của tình huynh đệ, dẫn chúng ta đến “một loại hoài nghi. Đó là cơn cám dỗ chúng ta phải đối diện nếu đi vào con đường chán nản hoặc thất vọng. [...] Sự cô lập hoặc khép kín trong những mối bận tâm của chính mình không bao giờ là con đường mang lại hy vọng và dẫn đến đổi mới. Con đường này chỉ được hình thành bởi sự gần gũi, bởi nền văn hóa gặp gỡ. Hãy nói không với sự cô lập và nói có với sự gần gũi. Hãy nói không với văn hóa đối kháng và nói có với văn hóa gặp gỡ.”[28]
31. Thế giới vẫn đang tiến bước mà không có lộ trình chung. Trong thế giới đó chúng ta ngày càng cảm thấy một bầu khí ở đó “khoảng cách giữa mối bận tâm về phúc lợi cá nhân và sự thịnh vượng của nhân loại dường như ngày càng dang rộng đến nỗi có sự phân cách hoàn toàn giữa cá nhân và cộng đồng nhân loại. […] Bởi lẽ cảm thấy phải sống chung với nhau là một chuyện, còn quý trọng sự phong phú và vẻ đẹp của những hạt mầm của cuộc sống chung phải được chung sức tìm kiếm và vun trồng lại là một chuyện khác.”[29] Kỹ thuật không ngừng phát triển, nhưng “sẽ tốt đẹp biết mấy nếu cùng với những tiến bộ sáng tạo của khoa học kỹ thuật, xã hội ngày càng thêm bình đẳng và gắn kết với nhau. Và cũng tốt đẹp biết bao, nếu đang khi phát hiện ra những hành tinh xa lạ, chúng ta cũng lại phát hiện ra nhu cầu của các anh chị em sống chung quanh ta.”[30]
CÁC ĐẠI DỊCH VÀ CÁC THẢM HỌA KHÁC TRONG LỊCH SỬ
32. Quả thực, thảm kịch toàn cầu như đại dịch Covid-19, có lúc đã khơi lại rõ ràng cái cảm thức chúng ta là một cộng đồng thế giới đang chèo chống trên cùng một con thuyền, ở đó điều gây tổn hại cho người này cũng gây tổn hại cho những người khác. Phải nhớ rằng nếu có được cứu, thì tất cả cùng được cứu, chứ chẳng có chuyện chỉ riêng ai đó được cứu. Đó là lý do trước đây tôi đã nói “cơn bão tỏ lộ cho thấy tính dễ bị tổn thương của chúng ta và cũng cho thấy những thứ an toàn giả tạo vô ích, mà chúng ta dựa vào để sắp đặt lịch trình hằng ngày, để xây dựng các dự án, thói quen và ưu tiên của chúng ta... Trong cơn giông bão này, những kiểu mẫu mặt nạ che giấu cái tôi của chúng ta, cái tôi luôn chăm chút dáng vẻ bên ngoài, đã bị rơi xuống, để rồi một lần nữa cho thấy cái cảm thức không thể chối bỏ và cũng thật tốt lành, đó là cảm thức chúng ta thuộc về nhau, là anh chị em với nhau.”[31]
33. Nhờ tiến bộ công nghệ, thế giới không ngừng hướng tới một nền kinh tế với “những tổn hại cho con người và xã hội” ngày càng thấp. Có người thuyết phục chúng ta tin rằng cứ có thị trường tự do thì mọi thứ đều sẽ đâu vào đó. Tuy nhiên, với cú đánh sấm sét và bất ngờ của cơn đại dịch khó kiểm soát này, chúng ta buộc phải quan tâm đến con người, đến mọi người, thay vì chỉ nghĩ đến lợi ích của một số người. Ngày nay, chúng ta có thể nhận ra rằng “chúng ta đã ấp ủ những giấc mơ long lanh bay bổng, nhưng rốt cuộc lại thường rối trí, khép kín và cô độc. Chúng ta tích góp để có nhiều mối liên kết trên mạng nhưng lại đánh mất hương vị huynh đệ. Chúng ta mong tìm những kết quả nhanh chóng và chắc chắn nhưng lại bị áp lực vì thiếu kiên nhẫn và lo âu. Trở thành tù nhân cho thực tại ảo, chúng ta đã đánh mất hương vị của đời thực”[32] Nỗi thống khổ, tình trạng bấp bênh, sự sợ hãi và việc nhận ra các giới hạn của bản thân, do cơn đại dịch gợi lên, càng khiến chúng ta phải cấp bách suy nghĩ lại về lối sống, các mối tương quan, cách tổ chức xã hội, và trên hết là ý nghĩa hiện hữu của chúng ta.[33]
34. Nếu mọi thứ đều có ảnh hưởng đến nhau, thật khó mà nghĩ rằng thảm họa mang tính toàn cầu này lại không liên quan gì đến cách chúng ta tiếp cận thực tại, khi cứ nhất định cho rằng chúng ta là chủ nhân tuyệt đối của chính cuộc đời mình và của tất cả những gì đang tồn tại. Tôi không muốn nói đây là do thần thánh trừng phạt. Cũng không cần phải khẳng định rằng những tổn hại mà chúng ta gây ra cho thiên nhiên chính là hình phạt cho các sai phạm của chúng ta. Chính những thực tại này đang rên xiết nổi loạn. Tôi chợt nhớ đến câu thơ nổi tiếng của thi sĩ Virgil vốn gợi lại “những giọt nước mắt của sự vật”, những bất hạnh của cuộc đời và lịch sử.
35. Tuy nhiên, chúng ta mau chóng quên đi những bài học của lịch sử, vốn là “thầy dạy của cuộc sống”[34]. Khi cuộc khủng hoảng sức khỏe này qua đi, phản ứng tệ hại nhất của chúng ta là chìm ngập sâu hơn vào cơn sốt chủ nghĩa tiêu thụ và các hình thức mới của bản năng đấu tranh tự tồn ích kỷ. Nhờ trời, rốt cuộc, chúng ta không còn suy nghĩ kiểu “bọn chúng”, “bọn nó”, mà chỉ còn là “chúng ta”. Ước gì đây không là một bi kịch khác của lịch sử mà lại một lần nữa chúng ta chẳng học được gì. Ước gì chúng ta luôn nhớ đến những người già đã chết vì thiếu máy trợ thở, phần nào đó là do hậu quả tích tụ dần, hết năm này đến năm khác, trong việc dỡ bỏ các trang thiết bị của hệ thống chăm sóc sức khỏe. Ước gì nỗi đớn đau dằn vặt lớn lao đó không trở nên vô ích, nhưng là bước tiến giúp chúng ta biết đổi mới cách sống. Ước gì chúng ta tái khám phá và vĩnh viễn nhận biết rằng chúng ta cần đến nhau, chúng ta mắc nợ lẫn nhau để nhờ đó, gia đình nhân loại được tái sinh, với mọi khuôn mặt, mọi bàn tay và mọi tiếng nói, vượt khỏi các bức tường biên giới mà chúng ta đã dựng nên.
36. Trừ phi chúng ta tìm lại được niềm khát vọng cùng muốn chung tay xây dựng một cộng đồng phụ thuộc và liên đới, đáng cho chúng ta cống hiến hết thời gian, tài trí, công sức và tiền của, bằng không, khi cái ảo tưởng toàn cầu từng lừa dối chúng ta đã sụp đổ, nhiều người trong chúng ta sẽ bị vây hãm bởi nỗi chán chường và trống rỗng. Hơn nữa, không nên ngây thơ chối bỏ sự thực này: “nỗi ám ảnh bởi lối sống tiêu thụ sẽ đưa tới bạo lực và hủy diệt lẫn nhau, nhất là khi chỉ có ít người có khả năng duy trì lối sống ấy.”[35] Quan điểm “mạnh ai nấy lo” sẽ mau chóng trở thành “tất cả đều là địch thù” và điều này còn tệ hại hơn bất cứ cơn đại dịch nào.
KHÔNG CÓ NHÂN PHẨM TẠI CÁC BIÊN GIỚI
37. Theo một số chế độ chính trị dân túy, cũng như một số lập trường kinh tế tự do, người ta chủ trương rằng cần phải ngăn chặn dòng người di cư bằng bất cứ giá nào. Đồng thời, cũng lập luận rằng cần phải hạn chế viện trợ cho các nước nghèo, vì khi kiệt quệ họ sẽ phải thực hiện các biện pháp thắt lưng buộc bụng. Người ta không nhận ra rằng, đằng sau những tuyên bố hàm hồ khó chấp nhận ấy, có nhiều mảnh đời bị đe dọa. Nhiều người di cư để trốn tránh chiến tranh, bách hại và thảm họa thiên nhiên. Nói cho ngay, nhiều người khác “mưu cầu cơ may cho bản thân và gia đình. Họ mơ ước có được một tương lai tươi đẹp hơn và muốn tạo điều kiện để thực hiện ước mơ đó.”[36]
38. Điều đáng buồn là có những di dân khác “bị lôi cuốn bởi nền văn hóa phương Tây, đôi khi ấp ủ những kỳ vọng không thực tế, nên rơi vào thất vọng ê chề. Những kẻ buôn lậu vô lương tâm, thường cấu kết với các băng đảng buôn bán ma túy và vũ khí, lợi dụng tình cảnh khó khăn yếu thế của di dân, vốn đã thường xuyên phải đối đầu với bạo lực, với nạn buôn người, với các lạm dụng tâm lý và thể lý, cũng như với vô vàn những khổ đau trên suốt hành trình của họ”[37] Những di dân này “phải xa rời quê cha đất tổ, và thường mất cả cội rễ văn hóa và tôn giáo. Tình trạng ly tán cũng ảnh hưởng đến các cộng đồng ở quê nhà, vì mất đi các thành viên khỏe mạnh và tháo vát nhất, đồng thời cũng ảnh hưởng đến các gia đình, đặc biệt là khi cha hoặc mẹ, hay cả hai, phải ra đi, bỏ lại con cái nơi quê nhà.”[38] Vì thế, “cũng cần phải tái khẳng định quyền không di cư, nghĩa là quyền được tạo điều kiện để ở lại trên chính quê hương mình.”[39]
39. Hơn nữa, “tại một số quốc gia mà họ đến, hiện tượng di dân đã gây nên nỗi e ngại và làm cho dân chúng lo sợ, những cảm xúc này thường bị kích động và khai thác nhằm mục đích chính trị. Vì thế, dẫn đến não trạng bài ngoại, khép kín và co cụm. Chúng ta cần phản ứng quyết liệt trước tình trạng này.”[40] Các di dân bị coi là không đủ xứng đáng như những người khác để tham gia vào đời sống xã hội, và người ta quên rằng họ cũng có phẩm giá nội tại như bất kỳ ai. Do đó, họ phải là “tác nhân chính trong việc tự nâng mình dậy.”[41] Chẳng bao giờ chúng ta nói rằng họ không phải là con người, nhưng trên thực tế, cách chúng ta quyết định và đối xử với họ chứng tỏ rằng chúng ta coi họ kém giá trị, kém quan trọng và kém nhân bản. Với các Kitô hữu, não trạng và lối hành xử như vậy là điều không thể chấp nhận được, vì đã đặt một số quan điểm chính trị lên trên những niềm xác tín sâu xa của chúng ta: phẩm giá không thể tước bỏ của mỗi người, bất kể nguồn gốc, chủng tộc hay tôn giáo, và luật tối thượng của tình yêu thương huynh đệ.
40. “Hơn bao giờ hết những cuộc di cư sẽ đóng vai trò quyết định cho tương lai thế giới.”[42] Nhưng ngày nay, tình trạng di cư bị tác động bởi “việc ‘đánh mất cảm thức trách nhiệm sống tình huynh đệ’, vốn là nền tảng cho mọi xã hội dân sự.”[43] Châu Âu, chẳng hạn, rất có nguy cơ đi vào con đường này. Tuy nhiên, “nhờ di sản vĩ đại về văn hóa và tôn giáo, châu Âu có đủ điều kiện để bảo vệ vị thế trung tâm của con người, đồng thời tìm được sự cân bằng đúng đắn giữa hai khía cạnh của trách nhiệm đạo đức đó là vừa bảo vệ quyền công dân, vừa bảo đảm hỗ trợ và đón nhận di dân.”[44]
41. Tôi biết một số người còn nghi ngại và sợ hãi di dân. Tôi xem đây là một phần của bản năng tự vệ chính đáng của con người tự nhiên. Tuy nhiên, đúng là một cá nhân hay một dân tộc chỉ đơm hoa kết trái nếu họ có khả năng mở ra với người khác hay với dân tộc khác cách sáng tạo. Tôi mời gọi mỗi người hãy vượt qua những phản ứng nguyên sơ ấy bởi lẽ “vấn đề là nỗi nghi ngờ và sợ hãi điều khiển cách suy nghĩ và hành động của chúng ta, đến nỗi khiến chúng ta không khoan dung, khép kín và thậm chí không nhận ra mình đang phân biệt đối xử với người di dân. Như thế, sự sợ hãi tước đi trong chúng ta ước muốn và khả năng gặp gỡ người khác.”[45]
--Ghi chú--
[27] Văn kiện về Tình Huynh đệ Nhân loại vì Hoà bình thế giới và Chung sống, Abu Dhabi (04/02/2019): L’Osservatore Romano, 4-5 tháng Hai 2019, tr. 6.
[28] Diễn văn với Giới hoạt động Văn hóa, Cagliari, Italy (22/09/2013): L’Osservatore Romano, 23-24 tháng Chín 2013, tr. 7.
[29] Humana Communitas (Cộng đồng nhân loại). Thư gửi Chủ tịch Hàn lâm viện Giáo hoàng về Sự Sống nhân Kỷ niệm 25 năm Thành lập (06/01/2019), 2.6: L’Osservatore Romano, 16 tháng Giêng 2019, tr. 6-7.
[30] Sứ điệp video gửi Hội nghị TED ở Vancouver (26/04/2017): L’Osservatore Romano, 27 tháng Tư 2017, tr. 7.
[31] Buổi Cầu nguyện Ngoại thường trong thời Đại dịch (27/03/2020): L’Osservatore Romano, 29 tháng Ba 2020, tr. 10.
[32] Bài giảng Thánh lễ tại Skopje, Bắc Macedonia (07/05/2019): L’Osservatore Romano, 8 tháng Năm 2019, tr. 12.
[33] Cf. Aeneid 1, 462: “Sunt lacrimae rerum et mentem mortalia tangunt”.
[34] “Historia... magistra vitae” (Cicero, De Oratore, 2, 6).
[35] Thông điệp Laudato Si’ (24/05/2015), 204: AAS 107 (2015), 928.
[36] Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Giám mục Christus Vivit (25/03/2019), 91.
[37] Ibid., 92.
[38] Ibid., 93.
[39] Bênêđictô XVI, Sứ điệp Ngày Thế Giới Di dân và Tị nạn 2013 (12/10/2012): AAS 104 (2012), 908.
[40] Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Giám mục Christus Vivit (25/03/2019), 92.
[41] Sứ điệp Ngày Thế Giới Di dân và Tị nạn 2020 (13/05/2020): L’Osservatore Romano, 16 tháng Năm 2020, tr. 8.
[42] Diễn văn với Ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh (11/01/2016): AAS 108 (2016), 124.
[43] Diễn văn với Ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh (13/01/2014): AAS 106 (2014), 84.
[44] Diễn văn với Ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh (11/01/2016): AAS 108 (2016), 123
[45] Sứ điệp Ngày Thế Giới Di dân và Tị nạn
-----------------------------
---Còn tiếp---