Ngày tháng: 31/12/2024
Đang truy cập: 26

ĐGH Phanxico, Thông điệp Fratelli Tutti, Phần 6/20 - 2021

Thông điệp Fratelli Tutti về tình huynh đệ và tình bằng hữu xã hội - Phần 6/20

THÔNG ĐIỆP FRATELLI TUTTI CỦA THÁNH PHANXICO ASSISI VỀ TÌNH HUYNH ĐỆ VÀ TÌNH BẰNG HỮU XÃ HỘI

 

CHƯƠNG HAI: MỘT NGƯỜI XA LẠ TRÊN ĐƯỜNG

 

     Các nhân vật

72. Dụ ngôn bắt đầu bằng vài câu ngắn gọn về bọn cướp. Đức Giêsu chọn cách bắt đầu câu chuyện khi vụ cướp đã xảy ra, để chúng ta khỏi tập trung chú ý vào tội ác hoặc vào những kẻ cướp thủ ác. Chúng ta đã biết rõ những chuyện đó. Chúng ta đã thấy lan tràn trên khắp thế giới bóng đêm dày đặc của sự ruồng bỏ, của bạo động nhằm phục vụ những lợi ích đê tiện của quyền lực, của tham lam và chia rẽ. Vấn nạn có thể là thế này: chúng ta có bỏ người bị thương nằm lại trên đường, để rồi mỗi người chạy trốn, tìm nơi ẩn núp tránh bạo lực hoặc để truy đuổi theo bọn cướp hay không? Chúng ta có dùng người bị thương để biện minh cho sự chia rẽ không thể hàn gắn, của sự vô cảm độc ác, của những xung đột nội bộ giữa chúng ta hay không?

73. Thế rồi, dụ ngôn cho chúng ta cái nhìn thẳng thắn về những người quay mặt bỏ đi. Không biết có vô tội hay không, không biết là do khinh bỉ hoặc vì lơ đãng, dẫu sao thái độ vô tư đáng sợ của các nhân vật như thầy tư tế và thầy Lêvi khi băng qua bên kia đường cũng trở thành một phản ảnh đáng buồn về khoảng cách giữa chúng ta và thế giới nơi chúng ta đang sống. Có nhiều cách thể hiện thái độ quay mặt bỏ đi: một mặt là co cụm chỉ lo cho mình, thờ ơ, vô cảm, không quan tâm đến người khác. Mặt khác là chỉ nhìn ra bên ngoài, là vọng ngoại như xảy ra tại một số quốc gia hoặc một số khu vực, ở đó người nghèo và văn hóa người nghèo bị khinh miệt, ở đó xuất hiện một lối sống đặc trưng vọng ngoại, dường như có ý áp đặt một mô hình xã hội ngoại nhập. Thế nên, một số người có thể biện minh cho sự vô cảm của họ, bởi vì những người hay yêu sách này nọ và có thể khiến họ động lòng, đơn giản là không tồn tại. Những người ấy không thuộc phạm vi họ quan tâm.

74. Trong những người quay mặt bỏ đi, có một chi tiết đáng chú ý: họ là những tín đồ tôn giáo, và hơn thế, là những chức sắc tôn giáo, chuyên lo việc tế tự thờ phượng Thiên Chúa: một thầy tư tế, một thầy Lêvi. Đây là lời cảnh báo mạnh mẽ: việc tin vào Thiên Chúa và tôn thờ Ngài không bảo đảm cho việc sống theo ý muốn của Ngài. Một người có niềm tin có thể không trung thành với tất cả những gì niềm tin này đòi hỏi, thế nhưng, lại có thể cảm thấy gần gũi Thiên Chúa và nghĩ rằng mình xứng đáng hơn những người khác. Nhưng vẫn có những cách sống niềm tin tạo thuận lợi cho việc mở lòng ra với anh em; và sống như thế mới bảo đảm cho việc thực sự mở lòng ra với Thiên Chúa. Thánh Gioan Kim khẩu còn đi đến chỗ diễn tả hết sức sáng sủa thách đố này của các Kitô hữu: “Bạn muốn tôn kính thân thể Đức Kitô ư? Chớ khinh chê thân thể ấy khi thân thể ấy trần trụi. Đừng tôn kính thân thể Người, theo kiểu: trong nhà thờ thì cho Người mang những y phục lụa là gấm vóc, nhưng ở ngoài lại coi thường, để cho thân thể ấy phải lạnh giá và trần trụi.[58] Điều ngược đời là đôi khi những người quả quyết mình không tin lại có thể chu toàn ý muốn của Thiên Chúa hơn những người tin.

75. Đồng minh bí mật của “bọn cướp đường” thường là những kẻ “quay mặt bỏ đi”. Vòng tròn đồng minh đó được khép kín giữa những kẻ khuynh đảo lừa dối xã hội để trục lợi với những người tin rằng mình vẫn trong sạch khi thi hành trọng trách của mình, nhưng đồng thời lại sống nhờ vào hệ thống này và hưởng những bổng lộc của nó. Có một kiểu đạo đức giả đáng buồn trong việc dung túng cho tội ác, dung túng cho các cá nhân hoặc tập đoàn sử dụng các định chế để trục lợi và những tệ nạn khác không thể diệt trừ, đi đôi với việc làm tha hóa tất cả, với việc không ngừng gieo rắc nghi ngờ khiến người ta bối rối hoang mang và không còn tin nhau nữa. Đáp lại lời phàn nàn “mọi thứ đều tồi tệ”, người ta bảo: “chẳng ai có thể sửa chữa được” hoặc “tôi thì có thể làm gì được?”. Và như thế người ta ngày càng vỡ mộng và tuyệt vọng, tình trạng này không khích lệ tinh thần liên đới và quảng đại. Nhận chìm một dân tộc trong chán nản là khép kín một vòng tròn tai quái hoàn hảo: đó chính là cách các nền chuyên chính độc tài vô hình của những quyền lợi giấu mặt và có thực đang vận hành nhằm chiếm hữu các nguồn tài nguyên cũng như khả năng phán đoán và suy tư của con người.

76. Cuối cùng chúng ta hãy nhìn đến người bị thương tích. Đôi khi chúng ta cảm thấy mình cũng như người ấy, mang thương tích trầm trọng, đang rên rỉ nằm bên đường. Chúng ta cũng cảm thấy bị bỏ rơi do các định chế của chúng ta thì thiếu sót và vô hiệu, hoặc chỉ phục vụ lợi ích của một thiểu số, bên trong và bên ngoài. Thật vậy, “trong xã hội toàn cầu hóa, người ta thường lịch sự quay nhìn về phía khác: dưới lớp vỏ bọc chính trị đúng đắn hoặc các ý thức hệ, họ nhìn người đau khổ mà không chạm tới, chỉ thấy người đau khổ trên truyền hình trực tiếp, và thậm chí còn dùng kiểu nói với nhiều uyển ngữ và đầy vẻ khoan dung."[59]

     Bắt đầu lại

77. Mỗi ngày chúng ta có được một thời cơ mới, bắt đầu một chặng đường mới. Đừng chờ đợi mọi thứ từ nhà cầm quyền, vì như thế là ấu trĩ. Chúng ta có một không gian đồng trách nhiệm để có thể bắt đầu và tạo ra các tiến trình và những thay đổi. Chúng ta hãy là những người chủ động trong việc phục hồi và hỗ trợ những tầng lớp xã hội bị tổn thương. Ngày nay, chúng ta có thời cơ thuận tiện để chứng tỏ rằng tự bản chất chúng ta là anh chị em với nhau, để trở thành những người Samari tốt lành nhận về mình nỗi đau của người khác, thay vì kích động hận thù và oán giận. Tựa như người bộ hành trong dụ ngôn tình cờ đi qua, chúng ta chỉ cần để mình được thúc đẩy bởi ước muốn tự nhiên, trong sáng và đơn giản, là làm nên một dân tộc, là miệt mài dấn thân giúp cho người quỵ ngã bên đường được đón nhận, được hội nhập và được nâng dậy; mặc dù nhiều lần chúng ta cảm thấy hết chịu nổi, muốn dùng đến lý lẽ của những kẻ ưa bạo lực, nuôi tham vọng mù quáng, chuyên gieo rắc ngờ vực và dối trá. Mặc cho bao người khác vẫn tiếp tục xem chính trị hoặc kinh tế như vũ đài để tranh giành quyền lực. Còn chúng ta, hãy cổ võ thiện ích và hãy phục vụ thiện ích!

78. Chúng ta có thể bắt đầu từ dưới lên với từng trường hợp thật cụ thể, trước hết ở quy mô địa phương, rồi dần dần lan rộng khắp nước, cho đến tận cùng thế giới, và như người bộ hành Samari hãy quan tâm chăm sóc từng vết thương của người bị nạn. Hãy tìm kiếm những người bị nạn khác và đón nhận những thực tại đó, đừng sợ đau khổ cũng đừng sợ sẽ không kham nổi, vì chính lúc đó chúng ta sẽ nhận ra tất cả những gì tốt lành Thiên Chúa đã gieo trồng nơi tâm hồn con người. Những khó khăn tưởng chừng quá sức sẽ là cơ hội phát triển chứ không là duyên cớ cho tình trạng trì trệ đáng buồn, dễ đưa đến thái độ buông xuôi phục tùng. Tuy nhiên, đừng làm một mình, kiểu cá nhân đơn độc. Người Samari đã tìm được một chủ nhà trọ có thể chăm sóc cho nạn nhân. Chúng ta cũng thế, chúng ta được mời gọi huy động nhau để kết liên thành một cái “chúng ta”, chắc hẳn sẽ hùng mạnh hơn tổng số những cá nhân lẻ loi nhỏ bé. Hãy nhớ rằng “toàn thể lớn hơn thành phần và cũng lớn hơn tổng số các thành phần.”[60] Hãy từ bỏ thói nhỏ nhen và nỗi oán hận mang tính cục bộ vô bổ, không ngừng đối kháng. Hãy thôi che đậy nỗi thống khổ do những sai lầm mình gây ra đồng thời thừa nhận các tội ác, sự lãnh đạm và dối trá của chính mình! Việc hòa giải và chữa lành sẽ mang lại cho chúng ta cũng như những người khác một cuộc sống mới, không còn sợ hãi nữa.

79. Người Samari rời quán trọ không mong có ai biết tới cũng không chờ một lời tri ân nào. Trước mặt Thiên Chúa và lương tâm của mình, ông cảm thấy vô cùng mãn nguyện vì đã tận tâm phục vụ, đây là bổn phận. Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm đối với người bị thương, là chính dân tộc mình và mọi dân tộc trên trái đất này. Cũng với thái độ liên đới, quan tâm và gần gũi của người Samari tốt lành, chúng ta hãy chăm sóc những thương tích yếu đau của mọi người, người lớn, trẻ em và người cao tuổi.

     Người thân cận không kể biên giới

80. Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn này để trả lời cho một câu hỏi: ai là người thân cận của tôi? Trong xã hội thời Chúa Giêsu cụm từ “người thân cận” thường dùng để chỉ người gần nhất, người láng giềng. Người ta dành sự giúp đỡ trước hết là cho những người cùng nhóm, cùng chủng tộc với mình. Với cái nhìn của một số người Do Thái thời đó, những người Samari thì đáng khinh và ô uế, không được kể vào số những người thân cận phải trợ giúp. Là người Do Thái, Đức Giêsu đảo ngược hoàn toàn cách tiếp cận này: Ngài không mời gọi chúng ta đặt câu hỏi ai là người thân cận của chúng ta, nhưng mời gọi chúng ta trở thành người gần gũi, người thân cận của mọi người.

81. Điều Ngài đề nghị đó là hãy hiện diện bên cạnh người đang cần trợ giúp, không bận tâm thắc mắc người ấy có cùng nhóm với ta hay không. Trong trường hợp này, chính người Samari đã làm cho mình trở thành người thân cận của người Do Thái bị thương. Để đến bên người bị nạn, ông đã vượt qua mọi rào cản văn hóa và lịch sử. Chúa Giêsu kết luận dụ ngôn bằng một yêu cầu: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10,37). Nói cách khác, Ngài đòi buộc chúng ta hãy bỏ qua mọi khác biệt và đứng trước nỗi đau hãy trở nên thân cận với mọi người. Do đó, tôi không còn nói rằng tôi có những “người thân cận” phải giúp đỡ, nhưng đúng hơn phải nói rằng tôi cảm thấy được kêu gọi trở nên người thân cận với những người khác.

82. Vấn đề Đức Giêsu cố ý nhấn mạnh đó là người bị thương là người Do Thái - dân cư xứ Giu-đê - trong khi người dừng lại để trợ giúp là người Samari - dân cư xứ Samari. Chi tiết này đặc biệt quan trọng giúp suy tư về một tình yêu mở rộng đến mọi người. Những người Samari sống trong vùng có sự thâm nhập của các nghi lễ ngoại giáo, và dưới mắt người Do Thái, điều đó khiến họ trở thành ô uế, đáng ghê tởm, nguy hiểm. Thực vậy, một bản văn cổ Do Thái đề cập đến các dân bị ghét bỏ, có nói về Samari, thậm chí còn khẳng định đó không phải là một dân (x. Hc 50,25); và sau đó còn thêm “đám dân ngu xuẩn ở vùng Si-khem” (c. 26).

83. Điều này giải thích tại sao khi Chúa Giêsu xin một phụ nữ Samari nước uống, chị đã cắc cớ hỏi lại: “Ông là người Do Thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari cho ông nước uống sao?” (Ga 4,9). Lời cáo buộc xúc phạm nhất mà những người tìm cách bôi nhọ Đức Giêsu đã có thể rêu rao là bảo Ngài ”bị quỷ ám” và là “người Samari” (Ga 8,48). Do đó, cuộc gặp gỡ đầy lòng thương xót giữa một người Samari và một người Do Thái là lời chất vấn mạnh mẽ chống lại mọi thao túng ý thức hệ, thúc đẩy chúng ta mở rộng thế giới của mình, nhờ đó khả năng yêu thương của chúng ta có được chiều kích phổ quát vượt thắng mọi thành kiến, mọi rào cản lịch sử hoặc văn hóa, mọi lợi ích nhỏ nhen.

     Lời kêu van của người khách lạ

84. Sau cùng, tôi lưu ý đến một đoạn Tin Mừng, trong đó Chúa Giêsu đã nói: “Tôi là khách lạ các ngươi đã tiếp rước” (Mt 25,35). Chúa Giêsu đã có thể công bố những lời này bởi vì Ngài có một trái tim rộng mở, nhạy cảm với những nỗi khốn quẫn của người khác. Thánh Phaolô đã khuyên nhủ: “Anh em hãy vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15). Một khi trái tim chúng ta mang lấy thái độ này thì chúng ta có khả năng đồng hóa mình với người khác, chẳng kể người đó sinh ở đâu hoặc đến từ nơi nào. Khi đi vào tiến trình này, cuối cùng chúng ta sẽ cảm nghiệm được người khác là “anh em cốt nhục” của mình (Is 58,7).

85. Đối với các Kitô hữu, những lời của Đức Giêsu còn có một chiều kích siêu việt khác, khiến họ nhận ra chính Đức Kitô trong mỗi người anh em bị bỏ rơi hoặc bị loại trừ (x. Mt 25,40.45). Trong thực tế, đức tin tạo lập lòng tôn trọng người khác dựa trên những thúc đẩy lạ thường, bởi lẽ các tín hữu nhận biết rằng Thiên Chúa yêu thương từng người bằng một tình yêu vô biên và “Ngài cũng ban cho mỗi người một phẩm giá vô biên.[61] Hơn nữa chúng ta tin rằng Chúa Kitô đã đổ máu mình ra cho mọi người và cho từng người, vì thế, không ai ở ngoài tình yêu phổ quát của Ngài. Và nếu chúng ta đi đến tận nguồn tình yêu đó, nghĩa là đi vào đời sống thâm sâu thân mật của Thiên Chúa, chúng ta sẽ thấy một cộng đồng Ba Ngôi, là nguồn gốc và mẫu mực hoàn hảo của mọi đời sống cộng đồng. Đã có những triển khai thần học sâu rộng về điểm này. Thần học ngày càng phong phú nhờ suy tư về chân lý lớn lao đó.

86. Đôi khi tôi lấy làm tiếc vì mặc dù đã có được những thúc đẩy như thế, Giáo hội đã phải mất một thời gian rất dài mới mạnh mẽ lên án nạn nô lệ và những hình thức bạo lực. Ngày nay, với sự tiến triển của linh đạo và thần học, chúng ta không còn lý do để biện minh nữa. Tuy nhiên, vẫn còn có những người dường như cảm thấy niềm tin của mình cổ võ hoặc ít ra chấp nhận các hình thức chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và bạo lực, thái độ bài ngoại, miệt thị, thậm chí ngược đãi những ai khác mình. Đức tin, bao hàm cả chủ nghĩa nhân bản, phải giữ được cảm thức phê phán trước các khuynh hướng này và tức thời phản ứng khi chúng xuất đầu lộ diện. Chính vì thế, điều quan trọng là trong huấn giáo và giảng dạy cần đề cập cách trực tiếp và rõ ràng hơn những nội dung liên quan đến ý nghĩa xã hội của hiện sinh, chiều kích huynh đệ của linh đạo, niềm xác tín về phẩm giá không thể tước bỏ của mỗi người và những lý do để yêu thương và đón nhận mọi người.

 

     --Ghi chú--

[58] Homiliae in Matthaeum, 50: 3-4: PG 58, 508.

[59] Sứ điệp gửi Cuộc Gặp gỡ Các Phong trào Đại chúng, Modesto, California, Hoa Kỳ (10/02/2017): AAS 109 (2017), 291.

[60] Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013), 235: AAS 105 (2013), 1115.

[61] Thánh Gioan Phaolô II, Sứ điệp gửi Những người Khuyết tậtKinh Truyền Tin ở Osnabrück, Đức (16/11/1980): Insegnamenti III, 2 (1980), 1232.

-----------------------------

---Còn tiếp---

zalo
zalo