LND: Hằng năm, tại Vatican, Cha Reniero Cantalamessa, vị giảng thuyết Phủ Giáo Hoàng chia sẻ những suy niệm của mình vào các dịp chuẩn bị mừng các đại lễ. Theo thông lệ đó, năm nay, Năm Lòng Thương Xót, vị giảng thuyết cống hiến cho Giáo Triều và cả chúng ta ba suy niệm trong Mùa Vọng. Đây là suy niệm đầu tiên với tựa đề: Chúa Kitô, ánh sáng muôn dân. Xin hân hạnh giới thiệu với đọc giả.
1. Một Giáo Hội học mang tính kitô học
Kỷ niệm năm mươi năm kết thúc Công Đồng gợi lên trong tôi ý tưởng dành ba suy niệm Mùa Vọng này cho việc xem lại những chủ đề chính của Công Đồng.
Một cách cụ thể, tôi muốn thực hiện một vài suy tư lần lượt trên những tài liệu chính của Công Đồng đó là bốn Hiến chế về Giáo Hội (Lumen gentium) về Phụng Vụ, (Sacrosanctum concilium), về Lời Chúa (Dei Verbum), và về Giáo Hội trong thế giới hôm nay (Gaudium et spes).
Một nhận xét mang lại cho tôi sự can đảm để đề cập những chủ đề rất rộng lớn trong một thời gian ngắn mà tôi có và cũng đã được tranh luận nhiều. Đã có liên tục những nghiên cứu và tranh luận về Công Đồng, nhưng hầu như nó liên quan đến những áp dụng thuộc giáo lý và mục vụ của Công Đồng; nó tập trung rất ít và nội dung tu đức theo nghĩa chặt. Vì vậy, tôi muốn tập trung vào nội dung này bằng việc cố gắng nghiên cứu điều mà các tài liệu Công Đồng được xem như là những bản văn của tu đúc còn nói chúng ta rằng nó rất là có ích cho việc xây dựng đức tin.
Chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc dành ba suy niệm Mùa Vọng này cho Lumen gentium, trong khi giữ phần còn lại cho Mùa Chay sắp tới, nếu Chúa muốn. Ba chủ đề trong hiến chế này tôi muốn suy tư đó là Giáo Hội như là thân thể và là hôn thê của Đức Kitô, ơn gọi phổ quát tới sự thánh thiện và giáo huấn về Đức Trinh Nữ Maria.
Ý tưởng cho suy niệm đầu tiên này về Giáo Hội đến với tôi trong việc đọc lại cách tình cờ từ phần đầu của Hiến chế trong bản văn Latin nói rằng: “Lumen gentium cum sit Christus – Chúa Kitô là ánh sáng của muôn dân”[1]. Tôi phải nói rằng tôi bối rối vì tôi không bao giờ để ý đến kết luận rất ý nghĩa được chứa đựng ngay ở khởi đầu này.
Vì tựa đề của Hiến chế chỉ có phần đầu của câu (Lumen gentium), tôi nghĩ rằng (và tôi không nghĩ rằng mình là người duy nhất) tựa đề “Ánh sáng muôn dân” được quy chiếu về Giáo Hội trong khi đó như chúng ta thấy, nó thực sự quy chiếu về Đức Kitô.
Đây là tựa đề mà ông già Simêon đã chào đón hài nhi Messia khi Người được đưa đến đền thờ bởi Đức Maria và thánh Giuse: “Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Người” (x. Lc 2, 32).
Lời tuyên xưng đầu tiên này là chìa khóa để giải thích toàn bộ Giáo Hội học của Công Đồng Vatican II. Đây là một nền Giáo Hội học mang chiều kích kitô học và vì thế nó có giá trị tu đức và thần bí trước giá trị xã hội và cơ cấu. Thật cần thiết đặt chiều kích kitô học lên trước hết của Giáo Hội học Công Đồng cả trong cái nhìn của việc tin mừng hóa hiệu quả hơn. Quả thế, con người không chấp nhận Đức Kitô bởi vì tình yêu dành cho Giáo Hội nhưng họ chấp nhận Giáo Hội bởi vì tình yêu dành cho Đức Kitô, dẫu một Giáo Hội bị biến dạng bởi tội lỗi của biết bao thành viên Giáo Hội.
Tôi phải nói ngay tức thì rằng tôi không phải là người đầu tiên làm sáng tỏ chiều kích kitô học cách chính yếu của Giáo Hội học của Công Đồng Vatican II. Khi đọc lại nhiều tác phẩm của Đức Hồng Y Ratzinger về Giáo Hội, tôi càng ý thức về sự kiên định mà ngài đã cố gắng gìn giữ cách sống động chiều kích này của giáo huấn về Giáo Hội trong Lumen gentium. Ngài nhắc nhở chúng ta về những hệ luận thuộc giáo thuyết của câu đầu tiên này – “Lumen gentium cum sit Christus - Chúa Kitô là ánh sáng muôn dân” – ta có thể tìm thấy trong những tác phẩm của ngài khẳng định sau đây: “Nếu bạn muốn hiểu Vatican II cách chính xác, bạn phải cứ bắt đầu lại bắt đầu với câu đầu tiên này”[2].
Chúng ta cần phải làm rõ ngay lập tức điều này để tránh mọi sự hiểu lầm: không ai phủ nhận cái nhìn tu đức sâu sắc này của Giáo Hội. Tuy nhiên, như thường xảy ra trong những điều của con người, cái mới có nguy cơ che khuất cái cũ, hiện tại làm mất cái nhìn vĩnh cữu, và đòi hỏi có lợi thế trên điều quan trọng. Như thế đã xuất hiện những ý tưởng của hiệp thông Giáo Hội và của Dân Chúa thường chỉ được phát triển trong ý nghĩa thuộc chiều ngang và xã hội của nó, nghĩa là theo cái nhìn của sự trái ngược giữa koinonia và phẩm trật, khi nhấn mạnh sự hiệp thông của các thành phần Giáo Hội với mỗi người hơn là nhấn mạnh sự hiệp thông của tất cả các thành viên với Đức Kitô.
Điều này đã là một sự ưu tiên của một thời và là một lợi ích, như thánh Gioan Phaolô II đón nhận và làm nỗi bật nó trong Tông thư của ngài, Novo millennio ineunte[3]. Nhưng năm mươi năm sau khi kết thúc Công Đồng, nó có còn hữu ích để cố gắng tái lập sự cân bằng giữa cái nhìn này của Giáo Hội, bị ảnh hưởng bởi những tranh luận đương thời, và cái nhìn tu đức và mầu nhiệm trong Tân Ước và trong các Giáo Phụ của Giáo Hội. Câu hỏi nền tảng là không phải “Giáo Hội là cái gì?” nhưng “Giáo Hội là ai?”[4] Đó là câu hỏi sẽ hướng dẫn tôi trong suy niệm lúc này.
2. Giáo Hội như là Thân Thể và là Hôn Thê của Đức Kitô
Trung tâm và nội dung kitô học của Lumen gentium nỗi lên cách đặc biệt trong chương đầu nơi mà Giáo Hội được trình bày như là hôn thê của Đức Kitô và là thân thể của Đức Kitô. Chúng ta hãy lắng nghe một vài khẳng định của Công Đồng:
“Giáo Hội, được gọi là “thành Giêrusalem trên trời” và là “mẹ của chúng ta” được miêu tả (Gal 4, 26); x. Kh 12, 17), được mô tả như hiền thê trinh tuyền của Con Thiên Chúa không tì ố (x. Kh 19, 7; 21, 2 và 9; 22, 17) được Chúa Kitô “yêu mến và hiến thân để thánh hóa” (Eph 5,25-26), được Người kết hợp bằng một giao ước bất khả phân ly, được “nuôi dưỡng và săn sóc” không ngừng (Eph 5, 29). Sauk hi thanh tẩy hiền thê, Chúa Kitô muốn hiền thê ấy kết hợp và vâng phục mình trong tình yêu và trung tín (x. Eph 5, 24)”.[5]
Công Đồng nói điều này cho tước hiệu hiền thê, và “thân thể của Chúa Kitô”:
“Khi Con Thiên Chúa chiến thắng sự chết bằng cái chết và phục sinh, trong nhân tính Người kết hợp, Người đã cứu chuộc và biến con người thành một thụ tạo mới (x. Gal 6, 15; 2Cr 5, 17). Thực vậy, Người tạo lập cách mầu nhiệm các em Người, tụ hợp từ muôn nước thành thân thể Người, bằng cách thông truyền Thánh Thần cho họ… Khi bẻ bánh tạ ơn, chúng ta thực sự thông dự vào Thân Thể của Chúa nên chúng ta được nâng lên để hiệp thông với Người và với nhau. “Chúng ta tuy nhiều nhưng là một tấm bánh, một thân thể vì hết thảy chúng ta đồng thông hưởng cùng một tấm bánh” (1Cr 10, 17)[6].
Khi còn là Hồng Y Đức Ratzinger cũng đã cố gắng làm sáng tỏ tương quan nội tại giữa hai hình ảnh này của Giáo Hội: Giáo Hội là thân thể của Đức Kitô bởi vì Giáo Hội là hiền hê của Đức Kitô! Hay nói cách khác, thánh Phaolô dùng hình ảnh về Giáo Hội như là thân thể của Đức Kitô cách chính yếu dựa trên phép ẩn dụ về sự hòa hợp của các thành phần trong thân thể con người (cho dẫu thỉnh thoảng ngài áp dụng nó theo cách này như trong thư Rôma 12, 4 tt và 1Cr 12, 12 tt), nhưng ngài có tư tưởng hôn phối về một thân xác mà người nam và người nữ làm nên khi họ kết hợp với nhau trong hôn nhân (x. Eph 5,29-32) và ngài còn có tư tưởng thuộc thánh thể về một thân xác được làm nên bởi những ai ăn cùng một tấm bánh: “Bởi vì tấm bánh là một, dầu tuy nhiều chúng ta là một thân thể, tất cả chúng ta tham dự một tấm bánh “(1Cor 10, 17)[7].
Chúng ta cần phải nhắc lại rằng đây là tâm điểm của quan niệm thánh Augustinô về Giáo Hội, theo đó đôi lần ngài có những diễn tả đồng hóa cách riêng và đơn sơ thân thể Chúa Kitô là Giáo Hội với thân thể Chúa Kitô là Thánh Thể[8]. Điều này cho thấy sự phát triển của thành ngữ “thân thể huyền nhiệm” của Chúa Kitô để nói về Thánh Thể đã dần dần chuyển sang để ám chỉ là Giáo Hội như ngày hôm nay hiểu[9]. Như chúng ta biết, đây cũng là cái nhìn mà phần lớn đưa nền Giáo Hội học Công Giáo gần với Giáo Hội học thánh thể của Giáo Hội Chính Thống. Không có Giáo Hội và không có Thánh Thể, Chúa Kitô sẽ không có một “thân thể” trong thế giới.
3. Từ Giáo Hội đến tâm hồn
Một nguyên lý thường được lặp lại và được áp dụng bởi các Giáo phụ Giáo Hội là “Ecclesia vel anima”, “Giáo Hội hay là tâm hồn”[10]. Có nghĩa là điều ta nói về Giáo Hội nói chung, ta áp dụng cho mỗi người nói riêng trong Giáo Hội, sau những phân biệt cần thiết. Một khẳng định được gán cho thánh Ambrôsiô nói: “Giáo Hội thật xinh đẹp trong các linh hồn”[11]. Khi muốn trung thành với ý định mà tôi đã đề cập để những suy niệm này để tập trung nhiều hơn cách trực tiếp xác định những phương diện của Giáo Hội học của Công Đồng, chúng ta có thể tự hỏi: “Đâu là ý nghĩa đối với đời sống tu đức của một Kitô hữu để sống và thực hiện ý tưởng này về một Giáo Hội như là thân thể và là hôn thê của Đức Kitô?”
Nếu Giáo Hội trong ý nghĩa sâu thẳm nhất và trung thực nhất là thân thể của Chúa Kitô, thể thì tôi hiện thực Giáo Hội trong tôi, tôi là một “hữu thể Giáo Hội”[12] theo mức độ mà tôi để cho Chúa Kitô làm cho tôi trở thành thân thể Người, không chỉ trên lý thuyết nhưng cả trên thực hành. Thật kỳ diệu điều này không phải do vị trí mà tôi có trong Giáo Hội nhưng là vị trí mà Chúa Kitô chiếm giữ trong trái tim tôi!
Điều này được thực hiện một cách khách quan nhờ các bí tích, và đặc biệt hai trong các bí tích: Rửa tội và Thánh Thể. Chúng ta đón nhận bích tích Rửa tội một lần, nhưng chúng ta có thể đón nhận bí tích Thánh Thể mỗi ngày. Đây là lý do tại sao Thánh Thể rất quan trọng để cử hành và đón nhận nó trong một cách thế như vậy để chúng ta có thể hoàn thành trách nhiệm làm cho mình trở nên Giáo Hội. Châm ngôn nỗi tiếng của Henri de Lubac nói rằng: “Thánh Thể làm nên Giáo Hội”[13] áp dụng không chỉ cho mức độ cộng đoàn nhưng còn cho mức độ cá nhân. Thánh Thể làm cho mỗi người chúng ta thành một thân thể của Chúa Kitô, nghĩa là Giáo Hội. Ở đây tôi cũng muốn trích dẫn những lời rất sâu sắc của Đức Hồng Y Ratzinger:
“Hiệp thông có nghĩa là rào cản bên ngoài không thể vượt qua của cái “tôi” được mở rộng… vì vậy nó có nghĩa sự kết hợp của hai cuộc sống; giống như trong việc dùng thức ăn cơ thể tiêu hóa chất bên ngoài thành của mình, và nhờ đó nó sống, trong một cách thế tương tự cái “tôi” được “tiêu hóa” chính Chúa Giêsu, nên giống với Người trong một sự chuyển đổi mà nó càng ngày càng cắt đứt những đường của phân chia”[14].
Hai cái tôi sống động, của tôi và của Chúa Kitô, trở thành một một “không lẫn lộn và không phân chia”, không mang tính cách ngôi hiệp như trong mầu nhiệm nhập thể nhưng mang tính cách thần bí và hiện thực. Từ hai “cái tôi” cuối cùng trở thành một cái duy nhất: không phải “cái tôi” của tôi nhỏ bé của thụ tạo nhưng là cái tôi của Chúa Kitô, sau khi rước Thánh Thể đến nỗi mỗi người chúng ta có thể dám nói như thánh Phaolô: “Không còn phải tôi sống, nhưng chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gal 2, 20). Trong Thánh Thể Nicholas Cabasilas viết:
“Chúa Kitô hiến mình trong chúng ta và tan biến mình với chúng ta, nhưng Người thay đổi và biến đổi chúng ta giống Người, như một giọt nước nhỏ được biến đổi bởi được đổ vào trong biển của dầu thơm”[15].
Như chúng ta đã nói, hình ảnh về Giáo Hội như là thân thể của Chúa Kitô được liên kết mật thiết với hình ảnh về Giáo Hội như là hiền thê của Chúa Kitô, và điều này cũng có thể trở thành một sự trợ giúp tuyệt vời cho chúng ta để kinh nghiệm Thánh Thể theo con đường nhiệm huấn cách sâu xa. Thư gửi tín hữu Ephêsô nó rằng hôn nhân là một biểu tượng của sự kết hợp của Chúa Kitô và Giáo Hội: “Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh (Eph 5,31-32). Theo thánh Phaolô, hệ luận ngay lập tức của hôn nhân là điều mà thân xác của người chồng giờ đây thuộc về người vợ và ngược lại, thân xác của người vợ thuộc về người chồng (x. 1Cr 7, 4).
Khi áp dụng cho Thánh Thể, điều này có nghĩa là thân xác không hư nát của Ngôi Lời nhập thể, Đấng ban sự sống, trở thành “tôi của tôi”, nhưng ngay cả thân xác của tôi, nhân tính tôi, trở thành của Chúa Kitô và thuộc về Người. Trong Thánh Thể chúng ta đón nhận mình và máu Chúa Kitô, nhưng Chúa Kitô cũng “đón nhận” mình và máu chúng ta! Thánh Hilariô thành Poitiers viết rằng Chúa Giêsu đảm nhận thân xác chỉ của những ai đón nhận mình Người[16]. Chúa Kitô nói với chúng ta: “Này là Mình Thầy, hãy cầm lấy”, nhưng chúng ta cũng có thể nói với Người: “Này là mình con, hãy cầm lấy”.
Trong tập thơ về Thánh Thể có tên là Khúc hát về Thiên Chúa Ẩn Dấu, Karol Wojtyla, vị giáo hoàng tương lai sau này, gọi con người mới này, đời sống mới được thực hiện nhờ “cái tôi của Chúa Kitô Thánh Thể”:
Và này một phép lạ xuất hiện,
Một sự biến đổi:
Này Ngài trở thành con,
Tôi – Thánh Thể - Ngài[17].
Không có gì trong đời tôi mà không thuộc về Chúa Kitô. Không ai có thể nói: “Ôi, Chúa Giêsu không biết kết hôn có nghĩa là gì, không biết làm một người phụ nữ, rồi mất một đứa con, bệnh tật, già nua, hay trở thành một người da màu”. Nếu bạn biết điều đó, thì Người cũng biết điều đó, nhờ bạn và qua bạn. Bất cứ điều gì mà chính Chía Kitô không thể kinh nghiệm “trong xác thịt”, khi Người ở trên trần gian, như điều của mỗi người, bị giới hạn với một số kinh nghiệm, thì nay Đấng Phục Sinh sống và kinh nghiệm chúng “trong Thánh Thần”, nhờ sự hiệp thông hôn phối của Thánh Lễ. Người sống trong người phụ nữ như là người phụ nữ, trong người già như là người già, trong người bệnh trong điều kiện bệnh tật. Những gì đã “thiếu” trong toàn bộ mầu nhiệm “nhập thể’ của Ngôi Lời thì nay “hoàn tất” nhờ Thánh Thể.
Chân Phước Êlizabeth Chúa Ba Ngôi viết trong một lá thư gửi cho mẹ ngài: “Tân nương thuộc về tân lang; tân lang của tôi đã cưới tôi; Người muốn tôi thêm cho Người một nhân tính”[18]. Điều Chúa Giêsu như đang nói với chúng ta: “Ta đói khát con, Ta muốn sống trong con, vì thế, Ta cần sống trong các tư tưởng của con, trong mọi tình cảm của con; Ta cần sống qua thân xác con, qua cơ thể con, qua ước vọng mỗi ngày con; Ta cần con nuôi dưỡng theo cách thức mà con được Ta nuôi dưỡng!”
Ôi lý do vô tận của sự kỳ diệu và an ủi khi nghĩ rằng nhân tính của chúng ta trở thành nhân tính của Đức Kitô! Nhưng cũng thật là trách nhiệm với tất cả điều này! Nếu cặp mắt tôi trở thành cặp mắt Chúa Kitô và miệng tôi trở thành miệng Chúa Kitô, đâu là một lý do không cho phép cái nhìn của tôi thỏa thuê với những hình ảnh dâm dật, đâu là lý do cho cho phép lưỡi tôi nói lời chống lại người anh em, hay dùng thân xác tôi phục vụ như một phương tiện của tội lỗi. Thánh Tông Đồ hỏi: “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao? Tôi lại lấy phần thân thể của Đức Kitô mà làm phần thân thể của người kỹ nữ sao?” (1Cr 6, 15). Những lời này áp dụng cho mọi người được rửa tội. Nhưng phải chăng cũng nói với những người được thánh hiến, với các thừa tác viên của Chúa, những người phải là “những mẫu gương của đoàn chiên” (1 Pr 5, 3) đó sao? Mỗi người có thể chỉ biết run lên khi nghĩ về sự thiệt hại nặng nề xảy ra đối với thân thể của Chúa Kitô là Giáo Hội.
4. Một cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Giêsu
Theo cái nhìn này tôi vừa nói về những lợi ích khách quan hay thuộc bí tích đối với việc chúng ta trở thành Giáo Hội, thân thể của Chúa Kitô. Tuy nhiên, còn có một chiều kích chủ quan và hiện sinh hiện diện trong điều mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói trong Evangelii Gaudium như một “cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Giêsu Nazareth”. Chúng ta hãy nghe những lời này lần nữa:
“Tôi mời gọi mọi người Kitô hữu, dù ở đâu hay trong hoàn cảnh nào, hãy canh tân ngay việc gặp gỡ các vị với Đức Giêsu, hay ít nhất, quyết định để cho Người gặp gỡ chúng ta, mỗi ngày luôn tìm kiếm Người. Không có lý do nào mà người ta có thể nghĩ rằng lời mời gọi này không dành cho họ” (EV số 3)[19].
Có thể chúng ta cần một bước đi xa hơn ở đây mà vẫn có sự kính trọng đối với Giáo Hội học Công Đồng. Trong ngôn ngữ Công Giáo, “một cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Giêsu” chưa bao giờ là một quan niệm rất quen thuộc cả. Thay vì một cuộc gặp gỡ “cá vị” người ta quy chiếu ý tưởng này về một cuộc gặp gỡ Giáo Hội được thực hiện qua bí tích của Giáo Hội. Mệnh đề này có một âm vang nào đó của Thể Phản với đôi tai Công Giáo chúng ta. Rõ ràng điều được đề nghị ở đây không phải là một cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Kitô hệ tại nơi cuộc gặp gỡ bí tích nhưng là cuộc gặp gỡ mà nó làm cho cuộc gặp gỡ bí tích đó thành một cuộc gặp gỡ tự do và được chào đón hơn là một cuộc gặp gỡ theo danh nghĩa, pháp lý, hay theo thói quen. Nếu Giáo Hội là thân thể của Chúa Kitô, một sự gắn bó tự do và cá vị với Chúa Kitô là con đường duy nhất để bước vào cuộc gặp gỡ đó, để làm một phần của nó theo cái nhìn hiện sinh.
Để hiểu một cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Giêsu có nghĩa là gì, chúng ta cần có một cái nhìn khái quát vào lịch sử. Người ta đã trở thành những thành viên của Giáo Hội trong ba thế kỷ đầu như thế nào? Dẫu có sự khác biệt từ cá nhân với cá nhân và từ nơi chốn với nơi chốn, họ trở những thành viên sau một sự gia nhập đạo lâu dài, thời gian tự tòng; đó là kết quả của một quyết định cá nhân, và cũng đồng nghĩa một chọn lựa nguy hiểm bởi khả năng có thể tử đạo.
Những điều này đã thay đổi khi Kitô giáo trở thành trước hết là một tôn giáo bao dung và sau đó, trong một thời gian ngắn, là tôn giáo được ưu đãi và nếu không muốn nói áp đặt. Trong hoàn cảnh này, sự tập trung không còn dựa trên thời điểm và cách thế mà người ta trở thành Kitô hữu nữa, nghĩa là làm sao anh hoặc chị đến với đức tin, nhưng lại dựa trên những đòi hỏi luân lý của chính đức tin, trên sự thay đổi những thói quen của một con người – hay nói cách khác, trên luân lý.
Dẫu không phải tất cả, tình hình đã ít tiêu cực hơn so với những gì có thể xuất hiện đối với chúng ta hôm nay, bởi vì, với tất cả sự mâu thuẫn mà chúng ta ý thức, như gia đình, giáo dục, văn hóa, và dần dần ngay cả xã hội cũng đã giúp đỡ con người để hấp thụ đức tin hầu như cách tự nhiên. Không rõ rằng lắm nhưng ngày từ đầu của hoàn cảnh mới này, đã sinh ra những hình thức đời sống, như phong trào đan tu và sau đó nhiều các dòng tu khác nhau, trong đó phép rửa được sống một cách tận căn và đời sống Kitô hữu là kết quả của một quyết định cá vị, thường là anh hùng.
Tình hình được gọi là “Kitô chế” ngày hôm nay đã thay đổi tận gốc rễ. Từ đây, có sự khẩn thiết cho một cuộc tân phúc âm hóa mà phải để ý đến hoàn cảnh mới. Trên bình diện thực hành, chúng ta đang đề cập đến việc phải sáng tạo những cơ hội cho con người hôm nay để trong một bối cảnh mới cho phép họ thực hiện quyết định tự do, cá vị và trưởng thành mà các các Kitô hữu ngày xưa đã sử dụng làm khi đón nhận phép rửa và điều đã làm cho họ trở thành kitô hữu đích thực và không chỉ là danh nghĩa.
Từ năm 1972, “Nghi tức gia nhập Kitô giáo của người lớn” có đề nghị một hình thức của giai đoạn dự tòng để phép rửa của người lớn. Trong một số quốc gia nơi mà nhiều người lớn đến với phép rửa, chương trình này được cho thấy rất hiệu quả. Nhưng điều gì chúng ta sẽ làm cho số đông Kitô hữu đã được rửa tội rồi đang sống như những kitô hữu chỉ theo danh nghĩa thôi, và không có thực hành cụ thể, và những ai không còn ở trong Giáo Hội và đời sống bí tích?
Một câu trả lời cho vấn đề này là những phong trào khác nhau thuộc Giáo Hội, những hiệp hội giáo dân và những cộng đoàn giáo xứ được canh tân, mà nó xuất hiện sau Công Đồng. Sự đóng góp chung của những nhóm này – dù rất khác nhau trong hình thức và số thành viên – chính là họ đã cung cấp bối cảnh và những ý nghĩa cho phép nhiều người lớn thực hiện một chọn lựa cá vị đối với Đức Kitô, để sống phép rửa một cách nghiêm túc, và để trở thành những người tham dự tích cự trong Giáo Hội.
Nhưng tôi sẽ không dừng lại trên phương diện mục vụ về vấn đề này. Điều tôi muốn nhấn mạnh ở phần kết của suy niệm này là một lần nữa phương diện tu đức và hiện sinh liên quan đến chúng ta một cách các nhân. Để có một cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Kitô có nghĩa là gì? Nó có nghĩa khi nói “Chúa Giêsu là Chúa!”, là cách thế mà thánh Phaolô và và các Kitô hữu sơ khai nói, nó xác định toàn bộ đời sống của một người mãi mãi vì điều đó.
Khi điều này xảy ra Chúa Giêsu không còn là một nhân vật nhưng là một con người gần gũi. Người không còn là một ai đó chỉ được nói về nhưng là một Ai đó mà chúng ta có thể nói với Người bởi Người đã sống lại và đang sống; Người không còn chỉ là một ký ức, dẫu sống động và hoạt động trong phụng vụ, nhưng là một sự hiện diện thực sự. Điều này muốn nói rằng không thực hiện nhiều quyết định quan trọng nào mà trước đó đã không trình bày với Người trong cầu nguyện.
Tôi nói ngay từ lúc đầu rằng con người không chấp nhận Chúa Kitô vì tình yêu đối với Giáo Hội nhưng họ chấp nhận Giáo Hội vì tình yêu đối với Đức Kitô. Chúng ta hãy cố gắng yêu mến Chúa Kitô và làm cho Người được yêu, và chúng ta sẽ dành sự phục vụ tốt nhất cho Giáo Hội. Nếu Giáo Hội là hiền thê của Chúa Kitô, như thế, giống như mỗi hiền thê, nàng sẽ sinh được những người con mới chỉ khi biết kết hợp mình với vị Hôn Phu nhờ tình yêu. Thành quả của Giáo Hội tùy thuộc vào tình yêu của chúng ta đối với Đức Kitô. Sự phục vụ tốt nhất của mỗi người chúng ta có thể làm cho Giáo Hội chính là yêu mến Chúa Giêsu và lớn lên trong sự thâm mật với Người.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Chuyển ngữ từ “CHRIST, THE LIGHT TO THE NATIONS” – A Christological Reading of Lumen gentium (http://www.zenit.org/en/articles/father-cantalamessa-s-1st-advent-homily–2).
[1] Lumen gentium 1, in Vatican Council II: Constitutions, Decrees, Declarations, gen. ed. Austin Flannery (Northport, NY: Costello, 1996), p. 1.
[2] Cf. Joseph Cardinal Ratzinger, “The Ecclesiology of Second Vatican Council,” in Church, Ecumenism, and Politics: NewEndeavors in Ecclesiology (San Francisco: Ignatius Press, 2008), p. 15.
[3] See St. John Paul II, Novo millennnio ineunte, 42 and 45.
[4] See Hans Urs von Balthasar, Explorations in Theology, Vol. 2: Spouse of the Word, trans. John Saward (San Francisco: Ignatius Press, 1991), pp. 143-192.
[5] LG 6
[6] LG 7
[7] See Joseph Cardinal Ratzinger, “The Origin and Essence of the Church,” in Called to Communion: Understandingthe Church Today (San Francisco: Ignatius Press, 1996), pp. 13-40.
[8] See St. Augustine, “Sermon 272,” in The Works of Saint Augustine, Part 3, vol. 7, trans. Edmund Hill, ed. John E. Rotelle (Hyde Park, NY: New City Press, 1993), pp. 300-301. See also (PL 38, 1247f.).
[9] See Henri de Lubac, Corpus Mysticum: The Eucharist and the Church in the Middle Ages, trans. Gemma Simmonds (Notre Dame, IN: University of Notre Dame Press, 2007).
[10] See Origen, On the “Song of Songs,” III (GCS 33, pp. 185, 190); St. Ambrose, Expositions of Psalm 118, 6, 18 (CSEL62, p. 117).
[11] St. Ambrose, On the Mysteries, 7, 39, quoted in Henri de Lubac, Medieval Exegesis, Volume 2: The Four Senses of Scripture, trans. E. M. Macierowski (London: A & C Black, 2000), p. 135.
[12] See John Zizioulas [L’être ecclésiale, 1981], Being as Communion: Studies in Personhood and the Church(Crestwood, NY: St. Vladimir’s Seminary Press, 1997).
[13] De Lubac, Corpus Mysticum, p. 88.
[14] Ratzinger, “The Origin and Essence of the Church,” p. 25.
[15] Nicholas Cabasilas, Life in Christ, 4, 6, trans. Carmino J. deCatanzaro (Crestwood, NY: St Vladimir’s Seminary Press, 1974), p. 123; see also PG 150, 593.
[16] St. Hilary of Poitiers, The Trinity, 8, 6: “Eius tantum in se adsumptam habens carnem, qui suam sumpserit”: “He has assumed and taken upon himself the flesh of him only who has received His own.” English trans., Stephen McKenna, in vol. 25, The Fathers of the Church (Washington, DC: Catholic University of America Press, 2010), p. 287; see also PL 10, p. 248.
[17] Karol Wojtyla, “Song of the Inexhaustible Sun,” in The Place Within: The Poetry of John Paul II, trans. Jerzy Peterkiewicz (New York: Random House, 1994), p. 23.
[18] Blessed Elizabeth of the Trinity, in Jean Lafrance, Learning to Pray According to Sister Elizabeth of the Trinity, trans. Florestine Audette (Sherbook, QC: Médiaspaul, 2003), p. 124.
[19] Pope Francis, Evangelii gaudium, 1, 3.