Ngày tháng: 04/05/2024
Đang truy cập: 6

Đức Tin Và Phương Pháp Suy Tư Thần Học: Edward Schillebeeckx - Phần 2/2 - Joseph Tân Nguyễn, Ofm

ĐỨC TIN VÀ PHƯƠNG PHÁP SUY TƯ THẦN HỌC:  EDWARD SCHILLEBEECKX - Phần 2/2

                                    Joseph Tân Nguyễn, OFM

NO PHOTO

     ÁP DỤNG VÀO CÁC VẤN NẠN THỜI SỰ

Khi nhìn lại tiến trình suy tư thần học của Schillebeeckx ta sẽ thấy có thay đổi rõ rệt về phương pháp nơi bài thuyết trình tại Hoa Kỳ (1969.) Trong đó, tác giả bàn về hai “khủng hoảng” thời sự cần được giải quyết: (1) não trạng “thế tục hóa” (secularism), và (2) phong trào “cái chết của Thiên Chúa” (the death of God movement).  Schillebeeckx đón nhận các khủng hoảng này như thử thách cho thần học. Nếu thần học có sứ mệnh giúp con người tìm gặp Thiên Chúa trong cuộc sống và nói lên niềm tin căn bản về sự thiện hảo đang hiện diện trong thế giới thì thần học gia phải liên tục cập nhập hóa ngôn ngữ và hình ảnh Thiên Chúa cho phức hợp với thay đổi trong bối cảnh.  Hai vấn nạn thời sự trên đây là những bối cảnh mà đòi hỏi thần học gia phải tiếp tục suy tư. Chúng ta hãy phân tích hiệu quả của phương pháp “tương quan liên đới phê phán” qua cách Schillebeeckx giải quyết hai vấn nạn này.

Trước tiên, khi quan sát não trạng “thế tục hóa”—quan điểm cho rằng tất cả mọi sự phải được giải thích qua lăng kính suy lý--  Schillebeeckx thấy có một sự rạn nức giữa quan điểm tôn giáo và quan điểm suy lý. Thay vì xét đoán não trạng “thế tục hóa” như là chối bỏ đức tin, ta hãy xem nó như là một khe hở hay hố sâu mà thần học phải vượt qua. Có hai khía cạnh của não trạng “thế tục hóa.” Một mặt, “thế tục hóa” đại diện cho sự thành tựu của con người về khoa học, kỹ thuật và chính trị.  Khởi đầu từ thời Kinh Viện, khái niệm “luật tự nhiên” giới thiệu một “cái chêm” vào sự hiểu biết về luật Thiên Chúa và lương tâm con người, tương tự như khái niệm “intellectus agens” của Tôma giới thiệu “chiều ngang” vào sự hiểu biết “chiều dọc” trong thuyết soi sáng của Augustinô.  Kế tiếp nguyên lý “pure nature” của Bellarmine giới thiệu một loại suy tư “chiều ngang” về hai khuynh hướng tự nhiên và siêu nhiên trong “bản tính” con người sống trong thế giới. Các thần học gia Cải Cách dùng thuyết duy tín (fidelism) để diễn tả hoạt động của Thiên Chúa rất khác với cách của Kinh Viện. Cuối củng với khái niệm “intellegere” của Kant thì niềm tin tôn giáo được đặt trên nền tảng luân lý thay vì mạc khải. Từ đó, Thiên Chúa chỉ là một “giả định” cần thiết cho sự tự do căn bản con người và là nền tảng cho lý tính thực hành. Như vậy, não trạng thế tục hóa nói lên sự trưởng thành và tự tin của lý trí con người.

Mặc khác, trong não trạng “thế tục hóa” có một sự “mơ hồ” mà chủ nghĩa tân thời đã tạo ra cho chính nó. Vì lẽ, quá trình “thế tục hóa” bằng lộ trình lý tính hóa (secularization = rationalization) cuối cùng cũng chỉ dừng lại ở mức độ công cụ (instrumentality, Weber).  Công cuộc giải phóng con người bằng con đường của tiến bộ khoa học và kỹ thuật đã không đưa đến một sự thăng tiến toàn bộ cho nhân phẩm con người. Trái lại khoa học, kỹ thuật càng phát triển, các giá trị nhân bản càng bị đè bẹp, tự do con người càng bị trói buộc vào hệ thống kinh tế hay chính trị, và niềm hy vọng được giải phóng hoàn toàn càng trở nên mong manh. Vấn đề không phải là ở sự phát triển của khoa học và kỷ thuật, mà là những hứa hẹn và khẳng định phản-khoa học của nó, e.g., khoa học và kỷ thuật cuối cùng sẽ giải phóng mang lại sự sung mãn toàn diện cho con người!  Khoa học và kỹ thuật là thành tựu đáng kể nhưng cũng có thể trở nên công cụ thống trị và tha hóa rất hữu hiệu. Tiếng nói của khoa học và kỹ thuật càng độc quyền thì khả năng siêu việt hóa của con người trở nên nghèo nàn và phạm vi của nó bị thu hẹp lại. Như vậy, thế tục hóa có nguy cơ trở thành nô lệ hóa cho chính nó.

Sự mâu thuẫn trên đây chính là nền tảng mà Schillebeeckx cảm thấy rằng ngôn ngữ và niềm tin tôn giáo cần phải được cập nhập hóa liên tục. Cho dù tranh luận thần học không nhất thiết phải xảy ra trong tiến trình “thế tục hóa,” nhưng “Thiên Chúa” không thể bị loại ra bên ngoài cuộc đối thoại về sự thăng tiến và sung mãn toàn diện của con người. Thần học cần đem mối ưu tư tìm gặp Thiên Chúa trong thế giới và niềm hy vọng được giải thoát của con người vào cùng một khung ngôn ngữ đầy ý nghĩa và mang tính phê phán.   

Thứ đến, về phong trào “cái chết của Thiên Chúa” Schillebeeckx cũng nhận ra có một sự mâu thuẫn nội tại.  Tuy khẳng định rằng thế giới ngày nay không còn gì nói nữa về Thiên Chúa, thay vì giữ thái độ thinh lặng thì người ta đã lên tiếng giải thích lý do cho hiện tượng này.  Các tác giả như T. Altizer, H. Braun, P. van Buren, W. Hamilton, etc., cho rằng sự độc quyền về “Thiên Chúa” mà thần học Kitô đã nắm giữ bấy lâu, nay đã bị phá sản.  Nhiều hình ảnh Thiên Chúa cổ truyền không còn là ngọn hải đăng đáng tin cậy để dìu dắt con thuyền nhân loại qua bóng đêm lịch sử.  Hơn thế nữa, các nhà phê bình như Feuerbach, Marx và Freud đã lột trần những mặt nạ quyền lực và ý đồ thống trị tiềm tàng nơi những hình ảnh và ngôn ngữ về Thiên Chúa. Mặt khác, cách phân biệt giữa “Thiên Chúa của niềm tin” với “Thiên Chúa của tôn giáo” của các thần học gia bảo thủ Tin Lành cũng không giải quyết được vấn đề ngôn ngữ, vì phân biệt như thế là không hiểu được tính “giải thích” của ngôn ngữ thần học. Những gì chúng ta nói về Thiên Chúa, nếu muốn có ý nghĩa, thì phải có sự liên quan tương ứng với trải nghiệm của con người.

Sự kiện mà thế giới tục hóa ngày nay không thể đưa ra một hình ảnh đầy ý nghĩa về Thiên Chúa cho thấy vẫn còn nhiều thử thách trong mối liên kết giữa ngôn ngữ về Thiên Chúa và nỗ lực tìm kiếm hạnh phúc tối hậu cho con người. Lịch sử đã để lại đầy dẫy các ví dụ về nỗ lực giải phóng con người nhưng kết cuộc chỉ là việc tuyệt đối hóa thể chế hay ý đồ chính trị nào đó.  Con người thời nay rất sợ bị đánh lừa bởi ngẫu tượng. Nổi lo sợ này, cộng với mức độ bạo hành vô nghĩa của chiến tranh, hận thù và nạn diệt chủng (Holocaust) đã làm cho con người thời nay càng trở nên hoài nghi và cay cú với những loại ngôn từ hoành tráng về Thiên Chúa. Thần học ngày nay không thể dùng cụm từ “Thiên Chúa” như là cái khiên bao che cho “mạc khải,” hoặc dùng các loại “chứng minh” về hiện hữu của Thiên Chúa như là nền tảng cho tri thức tôn giáo. Thần học cần phải khai thác trước tiên các điều kiện để mọi trình thuật về Thiên Chúa nằm trong cùng một khung ngôn ngữ với cách con người thường ngày phấn đấu cho hạnh phúc và ý nghĩa trong cuộc sống.

Trong bối cảnh này, thần học cần chú tâm đến những tiếng phản đối, chống lại các hình thức đau khổ vô nhân đạo hầu để có thể lắng nghe những âm vang về các giá trị nhân phẩm đang bị chà đạp và hủy hoại bởi bạo hành bất công.  Khả năng nhận diện các giá trị tích cực xuyên qua trải nghiệm tiêu cực chính là “biện chứng pháp tiêu cực” (negative dialectic) mà Schillbeeckx đã rút từ thuyết xã hội phê phán (Ardono, Horkheimer).  Như thế, sự thinh lặng về Thiên Chúa vừa là một phản đối và vửa là một lời mời đi tìm các “tên gọi” mới cho Thiên Chúa.  Nhiều “tên gọi” của Thiên Chúa trước đây giờ đã trở thành công cụ đàn áp và chà đạp giá trị nhân bản và không cỏn dùng được nữa, từ đó đưa đến “cái chết ngôn ngữ” của Thiên Chúa.  Schillebeeckx muốn khai triển một loại “thần học tự nhiên” cho thế giới chúng ta ngày nay cũng như Thánh Tôma đã giới thiệu “Ngũ Đạo” trong thần học Kinh Viện.

Qua hai vấn nạn trên đây chúng ta thấy Schillebeeckx đang hướng đến một vấn nạn thần học phổ quát hơn, đó là làm thế nào kết nối ngôn ngữ tôn giáo với ngôn ngữ dùng thường ngày.  Hai vấn nạn trên đây chỉ là các bối cảnh cụ thể cho thấy các trở ngại mà thần học cần phải vượt qua, đó là vấn đề ngôn ngữ về Thiên Chúa. Triết học ngôn ngữ cho thấy rằng ngôn ngữ về Thiên Chúa là ngôn ngữ về giới hạn của thế giới, giới hạn của trải nghiệm con người và giới hạn của tất cả mọi đàm thoại có ý nghĩa.  Cho dù triết học không thể lắp được khoảng trống này, nhưng nó có thể giúp làm sáng tỏ lôgíc và phạm vi mà trong đó ngôn ngữ tôn giáo có ý nghĩa. Theo ngôn ngữ học, ta cần khẳng định một mệnh đề có ý nghĩa hay không trước khi ta có thể biết là nó đúng hay sai.  Điều này có nghĩa là trong thần học, các điều kiện tạo ý nghĩa cho ngôn ngữ đức tin phải được minh bạch trước khi chân lý hay tính khả tín của thần học có thể được bàn đến.  Nếu các điều kiện này không được thỏa mãn thì hành trình tìm chân lý tối hậu cho con người sẽ bất khả thi và các dấu hiệu về thực tại siêu việt cũng sẽ không còn được nhận ra nữa.

Trong quá khứ, thần học Công giáo dựa trên siêu hình học đã quá nhấn mạnh về “chân lý” nhưng lại xem nhẹ các điều kiện về “ý nghĩa” và mối tương quan giữa ngôn ngữ đức tin với ngôn ngữ dùng trong trải nghiệm thường ngày.  Mặc khác, thần học Cải Cách thì lại quá chú tâm đến tính “hoàn toàn khác biệt” (wholly other) của ngôn ngữ về Thiên Chúa nhưng lại không phản ánh thực tại của đời sống đức tin trong thế giới. Thần học gia nên tìm kiếm trong trải nghiệm con người loại ngôn ngữ vốn có thể giúp cho mọi người thông hiểu khi Kitô hữu nói về “Thiên Chúa.” Mục tiêu của thần học theo Schillebeeckx, cùng với truyền thống Kitô giáo, là làm cho Tin Mừng ơn cứu rỗi được phổ quát. Cho dù thần học không có mục đích cho chúng ta bảo đảm tri thức hay thành đạt trong thế giới, nhưng nó phải cung cấp một cái gì đó liên quan đến nhân phẩm và niềm hy vọng sâu sa của con người nếu nó tiếp tục tồn tại. Do đó, thần học không thể bị giới hạn hay độc quyền bởi một nhóm riêng biệt nhưng phải mang lại có ý nghĩa cho tất cả mọi người. Đây là động lực đã thúc đẩy Schillebeeckx không chỉ tiếp cận và thủ đắc phương pháp “tương quan liên đới” của Paul Tillich, mà còn đã bổ túc và biến đổi nó thành một loại giải thích học phê phán về thực hành (praxis) của đức tin.

     KẾT LUẬN

Là một thần học gia Đa Minh, Schillebeeckx chia sẻ cùng quan điểm với Thánh Tôma rằng con người có khuynh hướng tự nhiên muốn tìm về Thiên Chúa. Nhưng Schillebeeckx đã đi xa hơn với phương pháp “tương quan liên đới phê phán” với mục tiêu nối kết cách hữu hiệu ngôn ngữ về Thiên Chúa với ngôn ngữ con người dùng để nói lên những hy vọng và cả thất vọng trong cuộc sống thế nhân.  “Nhạy cảm thần học” của Schillebeeckx là khả năng nhận diện “tên gọi” của Thiên Chúa không chỉ trong chiều kích siêu việt mà còn cả trong các bối cảnh tiêu cực, nơi mà hạnh phúc và tự do của con người đang bị đe dọa và chà đạp.  Như thế, sẽ không có sự mâu thuẩn thật sự giữa kinh nghiệm sống đức tin của Kitô hữu với các trải nghiệm về phản đối, chống lại sự dữ trên con đường đi tìm hạnh phúc và sung mãn. Và như thế thần học mới có thể làm chứng rằng Tin Mừng Kitô có thể đem lại một viễn tượng đầy ý nghĩa cho cuộc sống trong thế giới và lời hứa giải thoát tối hậu cho con người.  Schillebeeckx đã thành công trong sứ mệnh cao cả này.

-----------------------------------

Tài liệu tham khảo:  cùng tác giả Edward Schillebeeckx

- Revelation and Theology, Vols. I & II (1964)

- God the Future of Man, (1968)

- The Understanding of Faith (1971)

- “The Crisis of Religious Language,” (Concilium, 1973)

- Jesus (1974);  Christ (1977)

- The Interim Report (1980)

-“Erfahrung und Glaube,” The Schillebeeckx Reader, (Robert J. Schreiter, ed.1984)

- Church (1990)

zalo
zalo