CHƯƠNG III
HOẠT ĐỘNG CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ GIỚI
Bằng lao động và tài trí, con người đã luôn cố gắng phát triển thêm mãi cuộc sống của mình. Ngày nay, nhất là với sự trợ giúp của khoa học và kỹ thuật, con người đã và còn đang không ngừng nới rộng sự thống trị của mình gần như trên tất cả thiên nhiên, và đặc biệt nhờ sự gia tăng đủ loại phương tiện trao đổi giữa các quốc gia, gia đình nhân loại dần dần ý thức về mình và hợp thành gần như một cộng đồng duy nhất trong toàn thế giới. Do đó, ngày nay con người đã dùng tài năng của chính mình để tự cung ứng nhiều của cải mà trước đây họ chỉ biết mong đợi nơi các quyền lực thần linh.
Trước nỗ lực lớn lao có liên quan đến toàn thể nhân loại này, nhiều câu hỏi đang được con người nêu lên. Đâu là ý nghĩa và giá trị của hoạt động cần lao ấy? Phải sử dụng tất cả những của cải ấy như thế nào? Đâu là mục đích của những cố gắng cá nhân cũng như tập thể? Giáo Hội, tuy đang quản thủ kho tàng lời Chúa để từ đó rút ra những nguyên tắc luân lý và tôn giáo, nhưng không phải lúc nào cũng có ngay câu trả lời cho từng vấn đề. Dù vậy, Giáo Hội luôn luôn ao ước nối kết ánh sáng mạc khải với kiến thức của mọi người, để soi dẫn con đường mà nhân loại vừa bước chân vào.
Đối với các tín hữu, có một điều chắc chắn, đó là mọi hoạt động cá nhân và tập thể của nhân loại, cũng như tất cả nỗ lực to lớn của con người, vất vả suốt bao thế kỷ để cải thiện hoàn cảnh sinh sống, tự nó vốn phù hợp với ý định của Thiên Chúa. Thật vậy, được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, con người đã nhận nhiệm vụ làm chủ trái đất cùng tất cả những gì chứa đựng trong đó, cai quản vũ trụ trong công bình và thánh thiện56 và khi nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng tạo dựng mọi loài, họ quy hướng về Người chính bản thân mình cũng như muôn vật: như thế, khi vạn vật đã được con người thu phục, thì danh Chúa được tôn vinh trên khắp địa cầu57 .
Điều nói trên cũng liên quan đến những công việc thường ngày. Thật vậy, trong khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, tất cả những người nam cũng như nữ hoạt động để phục vụ xã hội một cách hữu hiệu đều có lý để tin rằng nhờ lao công của mình, họ tiếp nối công trình của Đấng Tạo Hóa, phục vụ anh em, đóng góp công sức vào việc hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử58 .
Người Ki-tô hữu không bao giờ nghĩ rằng, các công trình do con người dùng tài năng và sức lực riêng để thực hiện là chống đối quyền năng Thiên Chúa, cũng không coi thụ tạo có lý trí như một địch thủ của Tạo Hóa, nhưng công nhận rằng các thắng lợi của nhân loại là dấu chỉ biểu hiện sự cao cả của Thiên Chúa và là kết quả của ý định khôn lường của Ngài. Tuy nhiên, khi con người càng có thêm nhiều năng lực, thì càng có thêm trách nhiệm trong phạm vi cá nhân cũng như tập thể. Từ đó, chúng ta thấy sứ điệp Ki-tô giáo không kéo con người ra khỏi công cuộc xây dựng thế giới, cũng không làm cho họ mất đi sự quan tâm đến lợi ích của đồng loại, nhưng trái lại thúc bách họ hơn nữa về bổn phận phải thực hiện những điều ấy59 .
Hoạt động của con người phát xuất từ con người và cũng quy hướng về con người. Thật vậy, khi làm việc, con người không những biến đổi vạn vật và xã hội, mà còn hoàn thiện chính mình. Con người học biết được nhiều điều, phát triển tài năng, vươn ra khỏi bản thân và vượt lên cả chính mình. Nếu được hiểu cho đúng thì sự tăng triển này đáng giá hơn mọi của cải có thể thu tích được. Giá trị con người hệ tại ở “cái mình là” hơn ở “cái mình có”60 . Cũng vậy, tất cả những gì con người làm để đạt tới một nền công lý cao vượt hơn, một tình huynh đệ rộng lớn hơn và một trật tự nhân đạo hơn trong các tương quan xã hội, đều đáng quý trọng hơn các tiến bộ kỹ thuật, bởi vì, các tiến bộ ấy tuy có thể cung cấp chất liệu cho việc thăng tiến con người, nhưng tự chúng mà thôi không thể thực hiện được công cuộc thăng tiến ấy.
Vì thế, tiêu chuẩn cho hoạt động của con người chính là tất cả phải phù hợp với lợi ích đích thực của nhân loại theo như ý định và ý muốn của Thiên Chúa, và phải giúp con người, cá nhân cũng như tập thể, vun đắp và chu tất ơn gọi toàn diện của mình.
Tuy nhiên, nhiều người đương thời dường như e ngại rằng sự liên kết quá chặt chẽ giữa hoạt động của con người và tôn giáo sẽ làm ngăn trở sự độc lập của con người, của xã hội hoặc của khoa học.
Nếu chúng ta hiểu sự độc lập của các thực tại trần thế có nghĩa là các tạo vật và các cộng đồng xã hội đều có những định luật và những giá trị riêng mà con người phải dần dần nhận thức, sử dụng và điều hợp, thì đòi hỏi một sự độc lập như thế là một việc hoàn toàn chính đáng: đó không chỉ là đòi hỏi của người đương thời đòi hỏi nhưng còn là điều phù hợp với ý muốn của Đấng Tạo Hóa. Thật vậy, do chính cách thức tạo dựng, mọi vật đều được tác thành với các phẩm tính bền vững, chân thật và thiện hảo cũng như có những định luật và trật tự riêng. Con người phải tôn trọng tất cả những điều ấy, qua việc nhìn nhận các phương pháp riêng biệt của từng ngành khoa học và kỹ thuật. Bởi vậy, việc khảo sát có phương pháp trong mọi ngành, nếu tiến hành một cách khoa học thực sự và theo các tiêu chuẩn luân lý, sẽ không bao giờ trái nghịch với đức tin, vì các thực tại trần thế và các thực tại đức tin đều bởi một Thiên Chúa mà ra61 . Hơn nữa, những ai kiên nhẫn và khiêm tốn nỗ lực nghiên cứu sâu xa những bí ẩn của sự vật, vẫn được bàn tay Chúa hướng dẫn, dù chính họ không nhận ra, vì Ngài là Đấng bảo tồn muôn loài và cho chúng hiện hữu theo bản tính riêng của mỗi loài. Do đó, chúng ta lấy làm tiếc về một số thái độ, đôi khi cả nơi các Ki-tô hữu, không hiểu rõ sự độc lập chính đáng của khoa học và đã gây ra nhiều cuộc tranh luận và bất đồng khiến nhiều người nghĩ rằng đức tin và khoa học đối nghịch nhau62 .
Nhưng, nếu “sự độc lập của các thực tại trần thế” được hiểu là các tạo vật không lệ thuộc vào Thiên Chúa và con người có thể sử dụng chúng mà không cần quy hướng về Đấng Tạo Hóa, thì bất cứ ai đã nhận biết Thiên Chúa cũng đều thấy rằng lập trường đó hết sức sai lầm. Thật vậy, không có Đấng Tạo Hóa, tạo vật sẽ không tồn tại. Ngoài ra, mọi tín hữu, dù thuộc tôn giáo nào đi nữa, cũng luôn cảm nhận được tiếng nói của Thiên Chúa và sự hiển linh của Ngài qua ngôn ngữ của tạo vật. Hơn nữa, nếu thiếu vắng Thiên Chúa, tạo vật đều trở nên vô nghĩa.
Thánh Kinh dạy cho gia đình nhân loại biết điều mà kinh nghiệm của các thời đại cũng đã cho thấy, đó là tiến bộ tuy là một lợi ích lớn lao của con người nhưng cũng kèm theo một cám dỗ mãnh liệt. Thật vậy, khi đảo lộn bậc thang giá trị, khi không còn phân biệt ác và thiện, thì cá nhân cũng như tập thể chỉ nghĩ đến quyền lợi của mình chứ không quan tâm đến quyền lợi kẻ khác. Do đó, thế giới chưa phải là nơi có tình huynh đệ đích thực, trong khi ấy, sự gia tăng quyền lực của con người lại đe dọa hủy diệt chính nhân loại.
Một cuộc chiến cam go chống lại quyền lực bóng tối tiếp diễn trong suốt lịch sử nhân loại, khởi đầu từ khi thế giới khai nguyên và sẽ kéo dài đến ngày cuối cùng như lời Chúa phán63 . Dấn thân vào cuộc chiến này, con người phải luôn luôn chiến đấu để gắn bó với sự thiện và chỉ sau khi hết sức cố gắng với sự trợ giúp của ơn Chúa, con người mới tìm được sự thống nhất nơi chính mình.
Bởi vậy, Giáo Hội Chúa Ki-tô, tin tưởng vào ý định của Đấng Tạo Hóa, trong khi vẫn nhìn nhận rằng tiến bộ của nhân loại có thể phục vụ hạnh phúc chân chính của con người, nhưng Giáo Hội không thể không lặp lại lời sau đây của thánh Phaolô: “Anh em đừng nên giống như thế gian này” (Rm 12,2) nghĩa là đừng buông mình ham chuộng hư danh và gian xảo khiến hoạt động con người, vốn quy hướng về việc phụng sự Thiên Chúa và phục vụ con người, lại biến thành phương tiện phạm tội.
Vậy, nếu có ai hỏi phải làm gì để vượt qua tình trạng khốn khổ ấy, người Ki-tô hữu sẽ tuyên xưng rằng: mọi hoạt động của con người, hàng ngày đang lâm nguy vì tính kiêu ngạo và lòng vị kỷ thái quá, cần được thanh tẩy và hoàn thiện nhờ thập giá và sự sống lại của Chúa Ki-tô. Bởi đã được Chúa Ki-tô cứu chuộc và được biến đổi thành tạo vật mới trong Chúa Thánh Thần, nên con người có thể và phải yêu mến chính các tạo vật do Thiên Chúa dựng nên. Vì nhận được tạo vật từ nơi Thiên Chúa, nên con người quan tâm và tôn trọng chúng như ân huệ do bởi bàn tay Thiên Chúa. Luôn cảm tạ vị Ân Nhân đã ban tặng các tạo vật ấy, trong khi sử dụng và thụ hưởng chúng trong tinh thần khó nghèo và tự do, con người thực sự thi hành quyền làm chủ thế giới, như một kẻ không có gì hết nhưng lại sở hữu tất cả64 . “Vì mọi sự thuộc về anh em, còn anh em thuộc về Chúa Ki-tô, và Chúa Ki-tô thuộc về Thiên Chúa” (1 Cr 3,22-23).
Lời Thiên Chúa, Lời mà nhờ đó muôn vật được tạo thành, đã mặc lấy xác phàm và đến sống trên trái đất của con người65 . Là con người hoàn hảo, Người đã đi vào lịch sử, đảm nhận và thâu kết lịch sử thế giới trong chính mình66 . Chính Người mạc khải cho chúng ta “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8) và dạy cho chúng ta biết rằng: luật căn bản để kiện toàn con người, và từ đó biến đổi thế giới, là điều răn mới về tình yêu. Vậy, đối với những ai tin vào tình yêu Thiên Chúa, Người cho họ xác tín rằng con đường tình yêu mở rộng cho tất cả mọi người, và nỗ lực thiết lập tình huynh đệ đại đồng không phải là luống công. Người cũng nhắc nhở cho biết đức bác ái ấy không phải chỉ được thực hiện trong những công việc to tát, nhưng trước hết trong những điều thông thường của cuộc sống. Khi chịu chết vì tất cả chúng ta là những người tội lỗi67, Người chính là mẫu gương dạy chúng ta biết mang lấy thập giá mà xác thịt và thế gian đặt nặng trên vai những kẻ mưu tìm hòa bình và công lý. Khi sống lại, Đức Ki-tô được tôn làm Chúa và lãnh nhận toàn quyền thống trị trên trời dưới đất68; từ nay Người hoạt động trong lòng con người nhờ quyền năng Thánh Thần của Người, không những bằng cách khơi dậy những khát vọng hướng đến đời sau, nhưng còn dùng những khát vọng đó để cổ võ, thanh luyện và củng cố những ước vọng quảng đại, thúc đẩy gia đình nhân loại biến cải cuộc sống của mình trở nên nhân bản hơn, và quy phục trái đất về cùng mục đích ấy. Quả thật, ơn Chúa Thánh Thần được ban dưới nhiều hình thức: có những người được kêu gọi để làm chứng nhân tỏ tường cho nỗi khao khát được về quê trời, và giữ cho niềm khát vọng ấy luôn sống động trong gia đình nhân loại, một số khác được mời gọi để hiến thân phục vụ con người trong phạm vi trần thế, dùng sự phục vụ ấy để làm nên chất liệu xây dựng Nước Trời. Người giải thoát mọi người, để sau khi từ bỏ lòng vị kỷ và tập trung mọi năng lực trần thế cho cuộc sống con người, tất cả hướng về ngày mai, ngày mà nhân loại được Thiên Chúa đón nhận như lễ vật hiến dâng69.
Chúa đã để lại cho những kẻ thuộc về Người bảo chứng của niềm trông cậy và lương thực đi đường trong bí tích đức tin; trong bí tích ấy, những yếu tố trần thế, kết quả của lao công con người, được biến thành Mình và Máu vinh hiển của Người, nên bữa ăn hiệp thông huynh đệ và nếm hưởng trước bàn tiệc thiên quốc.
Chúng ta không biết được trái đất và nhân loại sẽ kết thúc vào thời điểm nào70, chúng ta cũng chẳng biết cách thức vũ trụ biến đổi ra sao. Quả thật, bộ mặt của một thế giới bị biến dạng vì tội lỗi đang qua đi71, nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một thế giới mới, nơi công lý ngự trị72. Hạnh phúc ở nơi ấy sẽ thỏa mãn và lấp đầy mọi ước vọng hòa bình đang trào dâng trong lòng con người73. Khi ấy, sự chết sẽ bị đánh bại, con cái Thiên Chúa sẽ phục sinh trong Chúa Ki-tô, và những gì được gieo vãi trong yếu hèn, mục nát, sẽ mặc lấy sự không hư nát74; tình yêu và các nghĩa cử bác ái sẽ tồn tại75 , và toàn thể tạo vật mà Thiên Chúa đã dựng nên cho con người sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ phù vân76.
Chúng ta đã được cảnh giác là lời lãi cả thế gian mà để hư mất chính mình thì nào có ích lợi gì77. Nhưng sự trông đợi một thế giới mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà thân thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một số hình ảnh nào đó của kỷ nguyên mới. Bởi vậy, tuy phải phân biệt rõ rệt những tiến bộ trần thế với việc mở rộng vương quyền Chúa Ki-tô, nhưng chính những tiến bộ này cũng có giá trị đối với Nước Thiên Chúa trong mức độ chúng có thể góp phần vào việc tổ chức xã hội loài người cho tốt đẹp hơn78.
Thật vậy, sau khi đã theo mệnh lệnh Chúa và nhờ Chúa Thánh Thần phổ biến trên trái đất các giá trị về nhân phẩm, về hiệp thông huynh đệ và tự do, nghĩa là mọi thành quả tốt đẹp do bản tính và hoạt động con người đem lại, chúng ta sẽ gặp lại chúng, nhưng là gặp lại sau khi chúng được thanh tẩy khỏi mọi tì ố, được chiếu sáng và biến đổi, nghĩa là khi Chúa Ki-tô trao lại cho Chúa Cha vương quốc vĩnh cửu và phổ quát: “Vương quốc của chân lý và sự sống, vương quốc thánh thiện và đầy ơn phúc, vương quốc công bình, yêu thương và bình an”79. Vương quốc ấy đã hiện diện cách mầu nhiệm ở trần gian này và sẽ được kiện toàn khi Chúa trở lại.
--- Còn tiếp ---
---------------------------------------------------------------------------------
[56] x. St 1,26-27; 9,2-3; Kn 9,2-3.
[57] x. Tv 8,7 và 10.
[58] x. GIOAN XXIII, Thông điệp Pacem in Terris: AAS 55 (1963), tr. 297.
[59] x. Sứ điệp các Nghị Phụ gửi cho thế giới vào dịp khai mạc Công Đồng Vaticanô II, tháng 10, 1962: AAS 54 (1962), tr. 822-823.
[60] x. PHAOLÔ VI, Diễn từ cho ngoại giao đoàn, 7.1.1965; AAS 57 (1965), tr. 232.
[61] x. CĐ VATICANÔ I, Hiến chế tín lý về Đức tin Công giáo Dei Filius, ch. III: DS 1785-1786 (3004-3005).
[62] x. PIÔ PASCHINI, Vita e opere di Galileo Galilei, 2 quyển, Pont. Accademia delle Scienze, Città del Vaticanô, 1964.
[63] x. Mt 24,13; 13,24-30 và 36-43.
[64] x. 2 Cr 6,10.
[65] x. Ga 1,3 và 14.
[66] x. Ep 1,10.
[67] x. Ga 3,14-16; Rm 5,8-10.
[68] x. Cv 2,36; Mt 28,18.
[69] x. Rm 15,16.
[70] x. Cv 1,7.
[71] x. 1 Cr 7,31; T. IRÊNÊ, Adv. H„reses, V, 36, 1: PG 7, 1222.
[72] x. 2 Cr 5,2; 2 Pr 3,13.
[73] x. 1 Cr 2,9; Kh 21,4-5.
[74] x. 1 Cr 15,42 và 53.
[75] x. 1 Cr 13,8; 3,14.
[76] x. Rm 8,19-21.
[77] x. Lc 9,25.
[78] PIÔ XI, Thông điệp Quadragesimo anno: AAS 23 (1931), tr. 207.
[79] Sách Lễ Rôma, Kinh Tiền Tụng lễ Chúa Kitô Vua.