Ngày tháng: 07/05/2025
Đang truy cập: 15

HIẾN CHẾ TÍN LÝ VỀ MẶC KHẢI THIÊN CHÚA ( kết thúc )

CHƯƠNG IV

CỰU ƯỚC

 14.

Khi ân cần dự định và chuẩn bị việc cứu độ toàn thể nhân loại, Thiên Chúa chí ái đã có một kế hoạch đặc biệt trong việc tuyển chọn đoàn dân riêng để trao gửi các lời hứa. Thật vậy, sau khi đã ký kết giao ước với Abraham (x. St 15,18) và với dân Israel qua trung gian Môsê (x. Xh 24,8), Ngài đã dùng lời nói và hành động để mặc khải cho dân riêng của Ngài biết rằng chính Ngài là Thiên Chúa duy nhất, chân thật và hằng sống, nhờ đó Israel nghiệm thấy đâu là những đường lối Thiên Chúa đối xử với loài người, và nhờ chính Ngài phán dạy qua miệng các ngôn sứ, càng ngày họ càng thấu hiểu những đường lối ấy cách sâu xa rõ ràng hơn, và đem phổ biến rộng rãi hơn nơi các dân tộc (x. Tv 21,28-29; 95,1-3; Is 2,1-4; Gr 3,17). Nhiệm cục cứu độ mà các tác giả Thánh Kinh đã tiên báo, thuật lại và giải thích, còn tồn tại trong các sách Cựu ước với tính cách là lời thật sự của Thiên Chúa. Vì vậy, các sách đã được Thiên Chúa linh hứng vẫn giữ một giá trị trường cửu: “Quả thế, tất cả những gì đã viết ra, đều được viết để dạy dỗ chúng ta, để nhờ kiên nhẫn và được an ủi bởi lời Thánh Kinh, chúng ta có được niềm cậy trông” (Rm 15,4).

15.

Nhiệm cục Cựu ước được sắp đặt với mục đích chính yếu là để chuẩn bị cho ngày xuất hiện của Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ muôn loài, ngày của Vương quốc Đấng Messia, được loan báo qua các ngôn sứ (x. Lc 24,44; Ga 5,39; 1 Pr 1,10) và được biểu thị bằng nhiều hình ảnh khác nhau (1 Cr 10,11). Hợp theo hoàn cảnh nhân loại trước thời Chúa Kitô thiết lập hồng ân cứu độ, các sách Cựu ước bày tỏ cho mọi người biết về Thiên Chúa và về con người, cũng như những cách thế mà Thiên Chúa công bình và nhân từ đối xử với loài người. Tuy nội dung có những điều tạm thời và chưa toàn hảo, các sách ấy chứng tỏ khoa sư phạm đích thực của Thiên Chúa 28. Do đó, các Kitô hữu phải thành kính đón nhận Cựu ước là bộ sách diễn tả một cảm thức sâu sắc về Thiên Chúa, tàng trữ những lời giáo huấn cao siêu về Ngài, một kiến thức khôn ngoan hữu ích về đời sống con người và những kho tàng kinh nguyện tuyệt diệu, trong đó ẩn chứa mầu nhiệm ơn cứu độ của chúng ta.

16.

Như thế, Thiên Chúa, Đấng linh hứng và là tác giả của cả hai bộ sách Giao ước, đã khôn ngoan xếp đặt cho Tân ước được tiềm tàng trong Cựu ước, và Cựu ước được tỏ hiện trong Tân ước 29. Thật vậy, tuy Chúa Kitô đã thiết lập Giao ước mới trong máu Ngài (x. Lc 22,20; 1 Cr 11,25), nhưng các sách Cựu ước được thâu dụng trọn vẹn trong lời rao giảng Tin Mừng 30, đã đạt được và giãi bày ý nghĩa đầy đủ trong Tân ước (x. Mt 5,17; Lc 24,27; Rm 16,25-26; 2 Cr 3,14-16), nhưng đồng thời cũng làm sáng tỏ và giải nghĩa Tân ước.

CHƯƠNG V

TÂN ƯỚC

 

17.

Lời Thiên Chúa, sức mạnh Thiên Chúa Cha dùng để cứu rỗi tất cả những ai có lòng tin (x. Rm 1,16), được trình bày và biểu dương sức mạnh cách trổi vượt trong các sách Tân ước. Thật vậy, khi đến thời viên mãn (x. Gl 4,4), Ngôi Lời đầy tràn ân sủng đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta (x. Ga 1,14). Chúa Kitô đã thiết lập Nước Thiên Chúa trên trần gian, Người đã dùng hành động cũng như lời nói để tỏ bày Cha của Người và chính mình, và đã hoàn tất công việc của Người khi chịu chết, sống lại, lên trời vinh hiển, và cử Thánh Thần đến. Chính Người, Đấng duy nhất có những lời ban sự sống đời đời (x. Ga 6,68), khi được nâng lên cao khỏi đất, đã kéo mọi người đến với mình (x. Ga 12,32: bản Hy Lạp). Mầu nhiệm này chưa từng được tỏ cho các thế hệ khác biết, nhưng nay đã được mặc khải trong Thánh Thần cho các thánh Tông đồ và các Ngôn sứ của Người (x. Ep 3,4-6: bản Hy Lạp) để họ rao giảng Tin Mừng, khơi dậy lòng tin vào Đức Giêsu, là Đấng Kitô và là Đức Chúa, đồng thời cũng quy tụ Giáo Hội. Về những điều ấy, các sách Tân ước luôn là một bằng chứng thần linh trường tồn.

18.

Không ai không biết rằng trong tất cả các Sách Thánh, kể cả các sách Tân ước, thì các sách Tin Mừng xứng đáng có địa vị trổi vượt, vì là chứng tích chính yếu về đời sống và giáo huấn của Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng Cứu Chuộc chúng ta.

Trong mọi thời và ở mọi nơi, Giáo Hội đã và vẫn quả quyết rằng bốn sách Tin Mừng bắt nguồn từ các Tông đồ. Thật vậy, những điều mà các Tông đồ rao giảng theo lệnh truyền của Chúa Kitô, sau đó nhờ Chúa Thánh Thần linh hứng, chính các ngài và những người cùng làm việc tông đồ với các ngài đã lưu truyền cho chúng ta trong những văn bản làm nền tảng đức tin, đó là Tin Mừng dưới bốn hình thức theo Matthêô, Marcô, Luca và Gioan 31.

19.

Mẹ thánh Giáo Hội đã và vẫn không ngừng quả quyết rằng bốn sách Tin Mừng vừa kể trên, mà Giáo Hội không ngần ngại khẳng định tính lịch sử, trung thành lưu truyền những gì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, khi sống giữa loài người, thật sự đã làm và đã giảng dạy vì phần rỗi đời đời của họ, cho tới ngày Người được đưa về trời (x. Cv 1,1-2). Thật vậy, sau khi Chúa Giêsu lên trời, các Tông đồ đã truyền lại cho những người nghe các ngài những điều Chúa đã nói, đã làm với sự thông hiểu đầy đủ hơn 32 mà các ngài đã nhận được từ các biến cố vinh hiển của Chúa Kitô và đã học biết nhờ ánh sáng của Thánh Thần Chân Lý 33. Các thánh sử đã viết bốn sách Tin Mừng bằng cách chọn một số trong những điều được truyền khẩu hay đã được ghi chép, tóm tắt hoặc giải thích một số điều tuỳ theo tình trạng của các giáo đoàn, và sau cùng vẫn giữ lại hình thức lời giảng, để luôn truyền đạt cho chúng ta những điều chính xác và trung thực về Chúa Giêsu 34. Quả thế, dựa trên ký ức hay kỷ niệm riêng, hoặc dựa trên lời chứng của những người “từ đầu đã tận mắt chứng kiến và đã trở thành những người phục vụ cho Lời”, các ngài đã viết ra với chủ ý giúp chúng ta nhận thức được “tính xác thực” của những lời các ngài nói để dạy dỗ chúng ta (x. Lc 1,2-4).

20.

Ngoài bốn quyển Tin Mừng, thư quy Tân ước còn gồm các thư thánh Phaolô và những văn bản khác thời các Tông đồ, đã được viết dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần; do ý định khôn ngoan của Thiên Chúa, các văn bản ấy củng cố thêm những gì liên hệ đến Chúa Kitô, trình bày ngày càng rõ ràng hơn giáo huấn đích thực của Người, rao giảng sức mạnh cứu độ của công trình thần linh do Chúa Kitô thực hiện, và tường thuật lại những bước đầu và sự tăng triển kỳ diệu, đồng thời tiên báo sự hoàn tất vinh hiển của Giáo Hội.

Thật thế, Chúa Giêsu đã ở bên các Tông đồ như xưa Người đã hứa (x. Mt 28,20) và đã cử Thánh Thần Bảo Trợ đến để dẫn dắt các ngài đến chân lý toàn vẹn (x. Ga 16,13).

CHƯƠNG VI

THÁNH KINH TRONG ĐỜI SỐNG GIÁO HỘI

 

21.

Giáo Hội vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh giống như tôn kính chính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng vụ thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Kitô để trao ban cho các tín hữu. Giáo Hội đã và vẫn luôn coi Thánh Kinh cùng với Thánh Truyền như là quy luật tối thượng của đức tin, bởi vì là sách được Thiên Chúa linh hứng và được ghi chép một lần cho mãi mãi. Thánh Kinh truyền đạt Lời của chính Thiên Chúa cách bất di bất dịch, và làm vang vọng tiếng Chúa Thánh Thần trong lời của các Ngôn sứ và các Tông đồ. Vì vậy, toàn thể việc rao giảng trong Giáo Hội cũng như chính nếp sống đạo của người Kitô hữu phải được Thánh Kinh nuôi dưỡng và hướng dẫn. Quả thật, trong các Sách Thánh, Cha trên trời âu yếm đến gặp gỡ và trò chuyện với con cái của Ngài, vì trong Lời Thiên Chúa có uy lực và quyền năng lớn lao để mang lại sự nâng đỡ và sức sống cho Giáo Hội, đồng thời đem đến cho đoàn con của Giáo Hội sức mạnh của đức tin, lương thực của linh hồn, nguồn mạch tinh tuyền và trường tồn của đời sống thiêng liêng. Bởi thế, lời nói sau đây hoàn toàn đúng về Thánh Kinh: “Quả thật, Lời Thiên Chúa luôn sống động và linh nghiệm” (Dt 4,12), “có năng lực xây dựng và ban phần gia nghiệp cho tất cả những người đã được thánh hoá” (Cv 20,32; x. 1 Ts 2,13).

22.

Lối vào Thánh Kinh cần phải được mở rộng cho các Kitô hữu. Chính vì thế, ngay từ buổi đầu, Giáo Hội đã thừa nhận bản dịch Cựu ước Hy Lạp cổ, được gọi là bản Bảy Mươi; Giáo Hội vẫn luôn quý trọng các bản dịch Đông phương khác và các bản dịch Latinh, nhất là bản dịch thường gọi là bản Phổ Thông. Tuy nhiên, vì Lời Thiên Chúa phải luôn tiện dụng cho mọi thời đại nên Giáo Hội như một người mẹ, ân cần lo liệu sao cho có các bản dịch thích hợp và đúng nghĩa sang các ngôn ngữ khác, nhất là dịch từ nguyên bản các Sách Thánh. Tất cả các Kitô hữu cũng có thể sử dụng cả những bản dịch, do hoàn cảnh thuận tiện và được giáo quyền chấp thuận, được thực hiện với sự cộng tác của các anh em ly khai.

23.

Hiền thê của Ngôi Lời Nhập Thể tức Giáo Hội, được Chúa Thánh Thần dạy dỗ, cố gắng hiểu biết Thánh Kinh ngày càng sâu xa hơn, để không ngừng lấy Lời Chúa nuôi dưỡng con cái mình. Do đó, Giáo Hội có lý khi khuyến khích việc học hỏi các thánh Giáo phụ và các nghi lễ Phụng vụ thánh của Đông phương cũng như Tây phương. Phần các nhà chú giải Công giáo và những nhà nghiên cứu thần học phải tận tình hiệp lực để làm việc dưới sự quan tâm của Huấn Quyền, cố gắng dùng những phương thế thích hợp để nghiên cứu và trình bày Thánh Kinh, sao cho đại đa số những người phục vụ Lời Chúa có thể cung cấp hữu hiệu cho Dân Thiên Chúa lương thực Thánh Kinh có sức soi sáng tâm trí, củng cố ý chí và thiêu đốt lòng con người yêu mến Thiên Chúa 35. Thánh Công Đồng khuyên nhủ con cái Giáo Hội đang nghiên cứu Kinh Thánh, hãy can đảm tiếp tục đến cùng công việc đã khởi sự tốt đẹp, với năng lực ngày càng đổi mới, trọn niềm hăng say, phù hợp với cảm thức của Giáo Hội 36.

24.

Khoa Thần học dựa trên Lời Thiên Chúa được viết trong Sách Thánh, cùng với Thánh Truyền, như dựa trên một nền tảng trường tồn, nhờ đó Thần học được củng cố thật vững chắc và luôn trẻ trung, để tất cả chân lý tiềm ẩn trong mầu nhiệm Chúa Kitô luôn được nghiên cứu dưới ánh sáng đức tin. Thánh Kinh chứa đựng Lời Thiên Chúa, và vì được linh hứng nên thật sự là Lời của Thiên Chúa; bởi thế, việc nghiên cứu Thánh Kinh phải trở nên như linh hồn của khoa Thần học 37. Chính lời Thánh Kinh nuôi dưỡng cách tuyệt hảo và làm tăng triển cách trọn vẹn thừa tác vụ Lời Chúa, bao gồm việc giảng thuyết của các Chủ chăn, việc dạy giáo lý và toàn thể giáo huấn Kitô giáo, trong đó bài giảng phụng vụ có một chỗ đứng đặc biệt.

25.

Vì thế, tất cả các giáo sĩ, trước hết là các linh mục của Chúa Kitô và những người chính thức phục vụ Lời Chúa, với tư cách là phó tế hoặc giảng viên giáo lý, phải gắn bó với Thánh Kinh, nhờ chuyên cần đọc Sách Thánh và học hỏi kỹ càng, để đừng có ai trở thành “kẻ hời hợt rao giảng Lời Thiên Chúa ngoài miệng bởi đã không lắng nghe Lời đó trong lòng” 38 trong khi họ phải thông truyền, nhất là trong Phụng vụ thánh, những kho báu vô tận của Lời Thiên Chúa cho các tín hữu đã được giao phó. Cũng vậy, Thánh Công Đồng ân cần và đặc biệt khuyến khích mọi Kitô hữu, nhất là các tu sĩ, hãy đạt đến “sự hiểu biết tuyệt vời về Chúa Giêsu Kitô” (Pl 3,8) nhờ năng đọc Sách Thánh. “Thật vậy, không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô” 39. Vì thế, họ phải siêng năng tìm đến với chính bản văn Thánh Kinh, hoặc nhờ Phụng vụ thánh chứa đựng dồi dào Lời Chúa, hoặc nhờ việc sốt sắng đọc Sách Thánh, hoặc nhờ những lớp học hỏi thích hợp và những phương tiện khác hiện đang được phổ biến khắp nơi với sự chuẩn nhận và quan tâm của các vị Chủ chăn trong Giáo Hội. Nhưng đừng quên rằng kinh nguyện phải đi đôi với việc đọc Thánh Kinh, để trở thành cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và con người, vì “chúng ta ngỏ lời với Người khi cầu nguyện, và chúng ta nghe Người nói lúc chúng ta đọc các lời Người tuyên phán” 40.

Các Giám mục là những người “gìn giữ giáo lý tông truyền” 41, có phận sự tìm phương cách thích hợp để dạy các tín hữu đã được ủy thác cho các ngài biết sử dụng cho đúng các Sách Thánh, nhất là Tân ước và đặc biệt là các sách Tin Mừng, qua các bản dịch có kèm theo những chú thích cần thiết và đầy đủ, để con cái Giáo Hội có thể tiếp xúc với Lời Chúa cách bảo đảm và ích lợi, cũng như được thấm nhuần tinh thần Thánh Kinh.

Hơn nữa, các vị chăn dắt các linh hồn, cũng như các Kitô hữu, dù trong bậc sống nào cũng nên khôn ngoan phổ biến các ấn bản Thánh Kinh với các ghi chú cần thiết, tiện dụng và thích hợp cho cả những người ngoài Kitô giáo.

26.

Vì thế, ước gì nhờ việc đọc và học hỏi Sách Thánh, “Lời Thiên Chúa được phổ biến mau chóng và được tôn vinh” (2 Ts 3,1), và kho tàng mặc khải đã được ủy thác cho Giáo Hội ngày càng lấp đầy tâm hồn con người. Cũng như đời sống Giáo Hội được tăng trưởng nhờ năng tiếp xúc với mầu nhiệm Thánh Thể, ta được phép hy vọng rằng đời sống thiêng liêng cũng nhận được sự thúc đẩy mới nhờ việc gia tăng lòng sùng kính Lời Thiên Chúa, Lời “tồn tại muôn đời” (Is 40,8; x. 1 Pr 1,23-25).

 Tất cả và từng điều được ban bố trong Hiến Chế này đều đã được các Nghị phụ Thánh Công Đồng chấp thuận. Và, với thẩm quyền tông truyền nhận được từ Chúa Kitô, hợp nhất với các Nghị phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, quyết nghị và xác lập, và những gì đã được xác lập theo thể thức Công Đồng, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.

Rôma, tại Đền Thánh Phêrô, ngày 18 tháng 11 năm 1965
Tôi, PHAOLÔ, Giám mục Giáo Hội Công giáo
(Tiếp theo là chữ ký của các Nghị phụ)

----------------------------------------------------------------------------------------

[28] PIÔ XI, Thông điệp Mit brennender Sorge, 14.3.1937: AAS 29 (1927), tr. 151.

[29] T. AUGUSTINÔ, Qu„st. in Hept. 2, 73: PL 34, 623.

[30] T. IRÊNÊÔ, Adv. H„r. III, 21, 3: PG 7, 950 (= 25, 1: Harvey, 2, tr. 115); T. CYRILLÔ GIÊRUSALEM, Catech. 4, 35: PG 33, 497; THEODORUS MOPSUESTIA, In Soph. 1, 4-6: PG 66, 452D-453A.

[31] x. T. IRÊNÊÔ, Adv. H„r III, 11, 8: PG 7, 885; xb. Sagnard, tr. 194.

[32] x. Ga 14,26; 16,13.

[33] x. Ga 2,22; 12,16; x. Ga 14,26; 16,12-13; 7,39.

[34] x. Huấn thị Sancta Mater Ecclesia do Ủy ban Giáo Hoàng về các nghiên cứu Thánh Kinh xuất bản: AAS 56 (1964), tr. 715.

[35] x. PIÔ XII, Thông điệp Divino afflante Spiritu, 30.9.1943: EB 551, 553, 567; ỦY BAN GIÁO HOÀNG VỀ KINH THÁNH, Huấn thị De S. Scriptura in Clericorum Seminariis et Religiosorum Collegiis recte docenda, 13.5.1950: AAS 42 (1950), tr. 495-505.

[36] x. PIÔ XII, Thông điệp Divino afflante Spiritu, 30.9.1943: EB 569.

[37] x. LÊÔ XIII, Thông điệp Providentissimus Deus: EB 114; BÊNÊĐICTÔ XV, Thông điệp Spiritus Paralitus, 15.9.1920: EB 483.

[38] T. AUGUSTINÔ, Hom. 179, 1: PL 38, 966.

[39] T. GIÊRÔNIMÔ, Comm. in Is., Prol.: PL 24, 17; x. BÊNÊĐICTÔ XV, Thông điệp Spiritus Paraclitus: EB 475-480; PIÔ XII, Thông điệp Divino afflante Spiritu: EB 544.

[40] T. AMBRÔSIÔ, De Officiis ministrorum I, 20, 88: PL 16, 50.

[41] T. IRÊNÊÔ, Adv. H„r. IV, 32, 1: PG 7, 1071 (= 49, 2) Harvey 2, tr. 255.

 

zalo
zalo