PHAOLÔ GIÁM MỤC
TÔI TỚ CÁC TÔI TỚ THIÊN CHÚA
HỢP NHẤT VỚI CÁC NGHỊ PHỤ CỦA THÁNH CÔNG ĐỒNG
ĐỂ MUÔN ĐỜI GHI NHỚ
HIẾN CHẾ TÍN LÝ
VỀ MẶC KHẢI THIÊN CHÚA
DEI VERBUM
Ngày 18 tháng 11 năm 1965
LỜI MỞ ĐẦU
1.
Khi thành kính lắng nghe và mạnh dạn công bố Lời Thiên Chúa, Thánh Công Đồng làm theo lời thánh Gioan: “Chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời, sự sống vẫn luôn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi: chúng tôi loan báo cho anh em điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, phần chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô” (1 Ga 1,2-3). Bởi thế, noi gương Công Đồng Trentô và Vaticanô I, Công Đồng này muốn trình bày giáo lý chân thật về mặc khải của Thiên Chúa và về việc lưu truyền mặc khải ấy, để nhờ việc rao giảng ơn cứu độ, toàn thể thế giới nhờ nghe mà tin, nhờ tin mà trông cậy, nhờ trông cậy mà yêu mến1.
CHƯƠNG I
VỀ CHÍNH VIỆC MẶC KHẢI
2.
Do lòng nhân lành và khôn ngoan, Thiên Chúa đã muốn mặc khải chính mình và tỏ cho biết thiên ý nhiệm mầu (x. Ep 1,9), nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần vào bản tính Thiên Chúa (x. Ep 2,18; 2 Pr 1,4). Qua việc mặc khải này, Thiên Chúa vô hình (x. Cl 1,15; 1 Tm 1,17), trong tình yêu thương chan hoà, đã ngỏ lời với loài người như với bạn hữu (x. Xh 33,11; Ga 15,14-15) và đến sống với họ (x. Br 3,38) để mời gọi và chấp nhận cho họ đi vào cuộc sống của chính Ngài. Nhiệm cục mặc khải này được thực hiện bằng những hành động và lời nói có liên hệ mật thiết với nhau, đến độ các việc Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử cứu độ biểu lộ và củng cố những giáo huấn cũng như các thực tại được diễn tả bằng lời nói; còn lời nói được dùng để công bố và làm sáng tỏ mầu nhiệm được chứa đựng trong các việc làm. Quả thực, nhờ mặc khải này, chân lý thâm sâu về Thiên Chúa cũng như về công cuộc cứu độ con người được bày tỏ cho chúng ta trong Chúa Kitô, Đấng vừa là trung gian vừa là sự viên mãn của toàn thể mặc khải2.
3.
Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và bảo tồn mọi sự nhờ Ngôi Lời (x. Ga 1,3), không ngừng minh chứng về chính mình cho loài người qua các thọ tạo (x. Rm 1,19-20), hơn nữa, vì muốn mở ra con đường cứu độ cao vời, ngay từ khởi thủy, Ngài đã tỏ mình ra cho nguyên tổ loài người. Sau khi tổ tông sa ngã, bằng việc hứa ban ơn cứu chuộc, Ngài đã nâng con người chỗi dậy, hướng tới niềm hy vọng cứu độ (x. St 3,15), và không ngừng săn sóc nhân loại, để ban sự sống đời đời cho tất cả những ai tìm kiếm ơn cứu độ bằng cách kiên tâm làm việc lành (x. Rm 1,19-20). Khi đến kỳ hạn, Ngài đã gọi Abraham để từ nơi ông thành lập một đoàn dân đông đảo (x. St 12,2-3), một dân tộc mà sau thời các tổ phụ, Ngài đã dùng Môsê và các ngôn sứ để dạy dỗ, giúp họ nhận biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất, hằng sống và chân thật, là Cha quan phòng, là Thẩm phán chí công và để họ trông đợi Đấng Cứu Thế Ngài đã hứa ban. Như thế, qua các thời đại, Ngài đã dọn đường cho Tin Mừng.
4.
Sau khi phán dạy nhiều lần nhiều cách qua các ngôn sứ, “vào những ngày sau hết này, Thiên Chúa đã nói với chúng ta qua Người Con” (x. Dt 1,1-2). Thật vậy, Ngài đã sai Con của Ngài là Ngôi Lời vĩnh cửu, Đấng soi sáng mọi người, đến sống giữa loài người và nói cho họ biết những điều kín nhiệm nơi Thiên Chúa (x. Ga 1,1-18). Như vậy, Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời trở thành xác phàm, “một người được sai đến với mọi người”3, “đã nói lời của Thiên Chúa” (Ga 3,34) và hoàn thành công trình cứu độ Chúa Cha đã giao phó cho Người thực hiện (x. Ga 5,36; 17,4). Vì thế, Đấng mà ai thấy là thấy Chúa Cha (x. Ga 14,9), bằng tất cả sự hiện diện và cách thế tỏ bày chính mình, bằng lời nói và việc làm, bằng các dấu chỉ và phép lạ, nhất là bằng cái chết và sự sống lại vinh quang từ trong kẻ chết, sau cùng, bằng việc cử Thánh Thần Chân lý đến, chính Người đã hoàn tất việc kiện toàn mặc khải và dùng chứng cứ thần linh xác nhận là Thiên Chúa ở với chúng ta, để giải thoát chúng ta khỏi bóng tối tội lỗi và sự chết, cho chúng ta sống lại để được sống đời đời.
Như vậy, nhiệm cục Kitô giáo sẽ mãi mãi trường tồn vì là giao ước mới và vĩnh viễn, và chúng ta không phải chờ đợi một mặc khải công khai mới nào khác nữa trước ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta tỏ mình ra trong vinh quang (x. 1 Tm 6,14; Tt 2,13).
5.
Đối với Thiên Chúa, Đấng mặc khải, con người phải bày tỏ “sự vâng phục bằng đức tin” (Rm 16,26; x. Rm 1,5; 2 Cr 10,5-6), qua đó, con người tự do phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa bằng việc “dâng lên Thiên Chúa, Đấng mặc khải, sự quy phục trọn vẹn của lý trí và ý chí”4, và tự nguyện ưng thuận mặc khải Ngài đã ban. Để có được đức tin này, cần có ân sủng Thiên Chúa đến trước nâng đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần, Đấng lay chuyển và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, mở mắt lý trí và cho “mọi người cảm thấy dịu ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý”5. Và cũng chính Thánh Thần không ngừng kiện toàn đức tin bằng các ân huệ của Ngài để giúp con người ngày càng thấu hiểu mặc khải sâu xa hơn.
6.
Thiên Chúa đã muốn dùng mặc khải thần linh để biểu lộ và thông ban chính mình cũng như ý định muôn đời của Ngài liên quan đến việc cứu rỗi nhân loại, “nghĩa là cho con người được tham dự vào các ân phúc siêu nhiên hoàn toàn vượt quá trí hiểu loài người”6. Thánh Công Đồng công nhận rằng “con người có thể nhờ ánh sáng tự nhiên của lý trí nhân loại suy luận từ các thụ tạo để nhận biết cách chắc chắn về Thiên Chúa là nguyên lý và cứu cánh mọi sự” (x. Rm 1,20); nhưng Công Đồng cũng dạy rằng cần phải có mặc khải, “để những điều thuộc về Thiên Chúa, nhưng tự thân không vượt quá khả năng của lý trí nhân loại, nay có thể được mọi người, trong tình trạng hiện tại của nhân loại, nhận biết cách dễ dàng, chắc chắn và không nhầm lẫn sai lạc”7.
CHƯƠNG II
SỰ LƯU TRUYỀN MẶC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA
7.
Thiên Chúa đã ân cần sắp đặt để những gì Ngài đã mặc khải nhằm cứu rỗi muôn dân luôn được bảo toàn và lưu truyền nguyên vẹn cho mọi thế hệ. Bởi thế, Chúa Kitô, Đấng kiện toàn trọn vẹn mặc khải của Thiên Chúa tối cao (x. 2 Cr 1,20 và 3,16-4,6), đã truyền dạy các Tông đồ rao giảng Tin Mừng đã được hứa trước qua các Ngôn sứ, được chính Người thực hiện và do chính miệng Người công bố, Tin Mừng đó được rao giảng cho mọi người như nguồn mạch mọi chân lý cứu độ và luật lệ luân lý8, đồng thời thông ban cho họ các ân huệ của Thiên Chúa. Sứ vụ này đã được thực hiện cách trung thành, hoặc bằng việc các Tông đồ dùng lời giảng dạy, gương lành và các định chế để truyền lại những điều các ngài đã nhận lãnh từ lời dạy dỗ, từ gương sống và các hành động của Chúa Kitô, hay đã biết được nhờ sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần; hoặc bởi việc chính các Tông đồ và những người cùng hoạt động tông đồ với các ngài đã viết lại sứ điệp cứu độ dưới sự linh hứng của cùng một Chúa Thánh Thần9.
Nhưng để Tin Mừng được giữ gìn toàn vẹn và sống động mãi trong Giáo Hội, các Tông đồ đã để lại những người kế vị là các Giám mục và “trao cho họ quyền giáo huấn của các ngài”10. Bởi vậy, Thánh Truyền cùng với Thánh Kinh Cựu ước và Tân ước, nên như tấm gương mà Giáo Hội lữ hành trên trần gian nhìn vào để chiêm ngưỡng Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch của tất cả những gì Giáo Hội đã nhận lãnh, cho đến khi được dẫn tới để nhìn Ngài diện đối diện, Ngài thế nào sẽ thấy được Ngài như vậy (x. 1 Ga 3,2).
8.
Vì thế, những lời giảng dạy của các Tông đồ được đặc biệt ghi lại trong các sách do Thánh Thần linh hứng, phải được bảo tồn và liên tục lưu truyền cho đến tận thế. Do đó, khi truyền lại những gì chính mình đã nhận lãnh, các Tông đồ khuyên bảo các tín hữu giữ gìn các truyền thống họ đã học biết qua lời chỉ giáo hay bằng thư từ (x. 2 Ts 2,15), và chiến đấu bảo vệ đức tin được truyền đạt cho họ chỉ một lần là đủ (Gđ 1,3)11. Và những điều các Tông đồ truyền lại bao gồm tất cả những gì góp phần giúp Dân Thiên Chúa sống thánh thiện và làm tăng trưởng đức tin, và như thế, qua giáo lý, đời sống và việc phụng tự, Giáo Hội bảo tồn và lưu truyền cho mọi thế hệ tất cả thực chất của mình và tất cả những gì mình tin.
Thánh Truyền do các Tông đồ truyền lại được tiếp nối trong Giáo Hội dưới sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần12. Thật vậy, các sự việc và lời nói truyền lại được hiểu biết thấu đáo hơn, hoặc nhờ sự chiêm niệm và học hỏi của những tín hữu đã luôn suy tưởng các điều ấy trong lòng (x. Lc 2,19 và 51), hoặc nhờ sự thông hiểu về những cảm nghiệm thiêng liêng, hoặc nhờ sự giảng dạy của những người đã lãnh nhận cách chắc chắn đoàn sủng về chân lý cùng với việc kế vị các Tông đồ trong chức Giám mục. Như thế, qua bao thế kỷ, Giáo Hội luôn hướng tới sự viên mãn của chân lý thần linh, cho đến khi các lời của Thiên Chúa được hoàn tất nơi chính Giáo Hội.
Lời các thánh Giáo Phụ chứng thực sự có mặt sống động của Thánh Truyền với bao giá trị phong phú đã thấm sâu vào các thực hành và đời sống của Giáo Hội, một cộng đoàn đang tin và đang cầu nguyện. Nhờ Thánh Truyền, Giáo Hội biết được toàn bộ thư quy Thánh Kinh, cũng chính Thánh Truyền làm cho Thánh Kinh được hiểu biết thấu đáo hơn và không ngừng trở nên sống động; như thế, Thiên Chúa, Đấng đã từng phán dạy, nay vẫn không ngừng ngỏ lời với Hiền Thê của Con yêu dấu mình, và Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho tiếng nói sống động của Tin Mừng vang dội trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội, làm vang dội trong thế giới, hướng dẫn các tín hữu nhận biết toàn thể chân lý và làm cho Lời Chúa Kitô được phong phú dồi dào trong họ (x. Cl 3,16).
9.
Như vậy, Thánh Truyền và Thánh Kinh được nối kết và thông giao với nhau cách chặt chẽ. Thật thế, vì đều phát xuất từ một nguồn mạch thần linh, nên có thể nói cả hai kết hợp thành một và cùng quy hướng về một mục đích. Quả vậy, Thánh Kinh là lời nói của Thiên Chúa, xét như Lời đã được ghi chép dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần; còn Thánh Truyền thì mang giữ Lời Thiên Chúa, đã được Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần ký thác cho các Tông đồ, sau đó truyền đạt nguyên vẹn lại cho những người kế vị, để những người này, nhờ Thánh Thần chân lý soi sáng, trung thành gìn giữ, trình bày và phổ biến Lời ấy bằng việc rao giảng; như thế, Giáo Hội có được niềm xác tín về mọi điều mặc khải không phải chỉ nhờ Thánh Kinh mà thôi. Chính vì vậy, cả Thánh Kinh lẫn Thánh Truyền đều phải được đón nhận và tôn trọng với một lòng quý mến và thành kính như nhau13.
10.
Thánh Truyền và Thánh Kinh làm thành kho tàng thánh thiêng duy nhất lưu trữ Lời Chúa đã được ký thác cho Giáo Hội; nhờ gắn bó với kho tàng ấy, toàn thể Dân Thánh, khi được quy tụ quanh các Chủ chăn, luôn trung thành trong việc lắng nghe giáo huấn của các Tông đồ, trong tình hiệp thông, trong nghi lễ bẻ bánh và trong kinh nguyện (x. Cv 2,42: bản Hy Lạp), nhờ đó, giữa các vị lãnh đạo và các tín hữu có sự nhất trí lạ lùng trong việc nắm giữ, thực hành và tuyên xưng đức tin đã được lưu truyền14.
Nhiệm vụ chính thức giải thích Lời Chúa đã được ghi chép hay lưu truyền15, đã được ủy thác riêng cho Huấn Quyền sống động của Giáo Hội16, một quyền hạn được thi hành nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Tuy nhiên, Huấn Quyền không ở trên Lời Chúa, nhưng phục vụ Lời Chúa vì chỉ giảng dạy những điều đã được truyền lại; bởi vì, do mệnh lệnh của Thiên Chúa và nhờ ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Huấn Quyền yêu mến lắng nghe, thành kính gìn giữ và trung thành trình bày Lời Chúa, đồng thời cũng kín múc từ kho tàng đức tin duy nhất ấy tất cả những gì mà Huấn Quyền công bố cho giáo dân tin như là những điều được Thiên Chúa mặc khải.
Như thế, chúng ta đã thấy rõ là do ý định vô cùng khôn ngoan của Thiên Chúa, Thánh Truyền, Thánh Kinh và Huấn Quyền của Giáo Hội được nối kết và liên đới với nhau đến nỗi cả ba luôn cần đến nhau để có thể tồn tại; và dưới tác động của một Thánh Thần duy nhất, cả ba theo phương cách riêng của mình nhưng đều góp phần hữu hiệu vào việc cứu rỗi các linh hồn.
CHƯƠNG III
ƠN LINH HỨNG
VÀ VIỆC GIẢI THÍCH THÁNH KINH
11.
Những mặc khải được chứa đựng và trình bày trong Thánh Kinh, đều được viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, Giáo Hội, Mẹ Thánh chúng ta, nhờ đức tin tông truyền, xác nhận rằng toàn bộ các sách Cựu ước cũng như Tân ước với tất cả các phần đoạn đều là Sách Thánh và được ghi vào bản thư quy Thánh Kinh, vì được viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần (x. Ga 20,31; 2 Tm 3,16; 2 Pr 1,19-21; 3,15-16), các sách ấy có tác giả là chính Thiên Chúa và được truyền lại cho Giáo Hội đúng theo nguyên bản 17. Quả vậy, trong việc biên soạn các Sách Thánh, Thiên Chúa đã chọn những con người và nhờ họ dùng tài năng và công sức 18, để khi chính Ngài hành động trong con người và qua con người 19, họ viết ra như những tác giả đích thực tất cả những gì Chúa muốn, và chỉ những điều đó mà thôi 20.
Vì tất cả những gì các tác giả được linh hứng, cũng gọi là thánh sử, đã viết ra, phải được xem là những điều được xác quyết bởi Chúa Thánh Thần, nên phải tuyên nhận rằng Thánh Kinh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm về chân lý mà Thiên Chúa đã muốn Thánh Kinh ghi lại để cứu độ chúng ta 21. Bởi vậy “toàn bộ Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng và hữu dụng trong việc giảng giải, biện bác, sửa dạy, giáo dục để nên công chính: giúp cho người của Thiên Chúa trở nên toàn hảo và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành” (2 Tm 3,16-17: bản Hy Lạp).
12.
Tuy nhiên, vì trong Thánh Kinh, Thiên Chúa đã nhờ con người và dùng cách nói của loài người mà phán dạy 22, nên để thấy rõ điều chính Ngài muốn truyền đạt cho chúng ta, nhà chú giải Thánh Kinh phải cẩn thận tìm hiểu điều các thánh sử thật sự có ý diễn đạt và điều Thiên Chúa muốn bày tỏ qua lời lẽ của các ngài.
Để tìm ra chủ ý của các thánh sử, giữa những phương pháp khác nhau, cũng cần phải chú ý đến “văn thể”, vì chân lý được trình bày và diễn tả qua nhiều thể văn khác nhau, như thể văn lịch sử, ngôn sứ, thi phú hoặc những cách diễn đạt khác; hơn nữa, nhà chú giải cũng cần phải tìm hiểu ý nghĩa mà thánh sử muốn diễn tả và thật sự đã diễn tả trong những trường hợp rõ rệt, trong hoàn cảnh thời đại và văn hoá của các ngài, qua các lối hành văn được dùng trong thời đó 23. Thật vậy, để hiểu đúng ý nghĩa tác giả thánh muốn khẳng định trong bản văn, chúng ta phải chú tâm đúng mức đến những cách thức cảm nhận, nói năng hoặc tường thuật của người bản xứ, thường được dùng vào thời đại của thánh sử, cũng như các cách thức mà người thời ấy quen dùng khi giao tế với nhau 24.
Nhưng vì Thánh Kinh đã được viết ra bởi Chúa Thánh Thần, thì cũng phải được đọc và giải thích nhờ chính Thánh Thần 25. Và để khám phá chính xác ý nghĩa của các bản văn thánh, cũng phải xem xét cách kỹ lưỡng đến nội dung và tính duy nhất của toàn thể Sách Thánh, dựa trên truyền thống sống động của toàn thể Giáo Hội và phương cách loại suy trong lãnh vực đức tin. Các nhà chú giải có nhiệm vụ dựa theo những quy tắc đó khi cố gắng tìm hiểu thấu đáo và trình bày ý nghĩa Thánh Kinh cách sâu sắc hơn, để việc nghiên cứu của họ nên như công trình chuẩn bị giúp cho phán quyết của Giáo Hội được thêm hoàn hảo. Quả vậy, những gì liên hệ đến việc giải thích Thánh Kinh, cuối cùng đều phải lệ thuộc vào phán quyết của Giáo Hội, vì Thiên Chúa đã truyền lệnh và trao cho Giáo Hội nhiệm vụ gìn giữ và giải thích Lời Ngài 26.
13.
Trong Thánh Kinh, sự “hạ cố” kỳ diệu của Đức Khôn Ngoan vĩnh cửu đã được tỏ hiện, trong khi vẫn bảo toàn phẩm tính chân thật và thánh thiện của Thiên Chúa, “để chúng ta biết được lòng nhân từ khôn tả của Thiên Chúa và nhận ra Ngài đã thích ứng lời nói của Ngài đến mức nào, khi Ngài đã biết trước và quan tâm đến nhân tính của chúng ta” 27. Quả thế, các lời của Thiên Chúa được diễn tả bằng ngôn ngữ loài người, đã trở nên tương tự với lời nói loài người, cũng như xưa Ngôi Lời của Chúa Cha vĩnh cửu đã mặc lấy xác thịt yếu đuối của loài người, đã trở nên giống như con người.
--- Còn tiếp ---
------------------------------------------------------------------------------------
[1] x. T. AUGUSTINÔ, De catechizandis rudibus, c. IV, 8: PL 40, 316.
[2] x. Mt 11,27; Ga 1,14 và17; 14,6; 17,1-3; 2 Cr 3,16 và 4,6; Ep 1,3-14.
[3] Epist. ad Diognetum, 7, 4: xb. Funk, Patres Apostolici, I, 403.
[4] CĐ VATICANÔ I, Hiến chế tín lý về Đức tin Công giáo Dei Filius, ch. 3 về đức tin: DS 1789 (3008).
[5] CĐ ORANGE II, c. 7: DS 180 (377); CĐ VATICANÔ I, Hiến chế tín lý về Đức tin Công giáo Dei Filius, ch. 3: DS 1791 (3010).
[6] CĐ VATICANÔ I, Hiến chế tín lý về Đức tin Công giáo Dei Filius, ch. 2 về mặc khải: DS 1786 (3005).
[7] CĐ VATICANÔ I, Hiến chế tín lý về Đức tin Công giáo Dei Filius, ch. 2: DS 1785 và 1786 (3004 và 3005).
[8] x. Mt 28,19-20 và Mc 16,15; CĐ TRENTÔ, Khoá 4, Sắc lệnh De Canonicis Scripturis: DS 783 (1501).
[9] x. CĐ TRENTÔ, Khoá 4, Sắc lệnh De canonicis Scripturis: DS 783 (1501); CĐ VATICANÔ I, Khoá 3, Hiến chế tín lý về Đức tin Công giáo Dei Filius, ch. 2: DS 1787 (3006).
[10] T. IRÊNÊÔ, Adv. H„r. III, 3, 1: PG 7, 848; HARVEY, 2, tr. 9.
[11] x. CĐ NICÊA II: DS 303 (602); CĐ CONSTANTINÔPÔLI, Khoá 10, điều 1: DS 336 (650-652).
[12] x. CĐ VATICANÔ I, Hiến chế tín lý về Đức tin Công giáo Dei Filius, ch. 4: DS 1800 (3020).
[13] x. CĐ TRENTÔ, Sắc lệnh De canonicis Scripturis: DS 783 (1501).
[14] x. PIÔ XII, Tông hiến Munificentissimus Deus, 1.11.1950: AAS 42 (1950), tr. 756, lấy lại lời thánh Cyprianô, Epist. 66, 8: CSEL 3, 2, tr. 733: “Giáo Hội là đoàn dân hợp nhất với linh mục và là đoàn chiên gắn bó với chủ chăn”.
[15] x. CĐ VATICANÔ I, Hiến chế tín lý về Đức tin Công giáo Dei Filius, ch. 3: DS 1792 (3011).
[16] x. PIÔ XII, Thông điệp Humani generis, 12.8.1950: AAS 42 (1950), tr. 568-569: DS 2314 (3886).
[17] x. CĐ VATICANÔ I, Hiến chế tín lý về Đức tin Công giáo Dei Filius, ch. 2: DS 1787 (3006); ỦY BAN GIÁO HOÀNG VỀ KINH THÁNH, Sắc lệnh ngày 18.6.1915: DS 2180 (3629); EB 420; THÁNH BỘ THÁNH VỤ, Thư ngày 22.12.1923: EB 499.
[18] x. PIÔ XII, Thông điệp Divino afflante Spiritu, 30.9.1943: AAS 35 (1943), tr. 314; EB 556.
[19] Trong và qua con người: x. Dt 1,1 và 4, 7 (trong); 2 Sm 23,2; Mt 1,22 và nhiều nơi khác (qua); CĐ VATICANÔ I: Schema de doctr. cath., ghi chú số 9: Coll. Lac. VII, 522.
[20] LÊÔ XIII, Thông điệp Providentissimus Deus, 18.11.1893: DS 1952 (3293); EB 125.
[21] x. T. AUGUSTINÔ, Gen. ad litt. 2, 9, 20: PL 34, 270-271; CSEL 28, 1, 46-47 và Epist. 82, 3: PL 33, 277; CSEL 34, 2, 354; T. TÔMA, De Ver. q. 12, a. 2, C; CĐ TRENTÔ, c. 4, De canonicis Scripturis: DS 783 (1501); LÊÔ XIII, Thông điệp Providentissimus Deus: EB 121, 124, 126-127; PIÔ XII, Thông điệp Divino afflante Spiritu: EB 539.
[22] T. AUGUSTINÔ, De Civ. Dei, XVII, 6, 2: PL 41, 537; CSEL 40, 2, 228.
[23] T. AUGUSTINÔ, De Doctr. Christ. III. 18, 26: PL 34, 75-76.
[24] PIÔ XII, Thông điệp Divino afflante Spiritu: DS 2294 (3829-3820); EB 557-562.
[25] x. BÊNÊĐICTÔ XV, Thông điệp Spiritus Paraclitus, 15.9.1920: EB 469; T. GIÊRÔNIMÔ, In Gal. 5,19-21: PL 26, 417A.
[26] x. CĐ VATICANÔ I, Hiến chế tín lý về Đức tin Công giáo Dei Filius, ch. 2: DS 1788 (3007).
[27] T. GIOAN KIM KHẨU, In Gen. 3, 8 (hom. 17, 1): PG 53, 134. “Thích ứng” tiếng Hy Lạp là synkatábasis.