Ngày tháng: 18/10/2024
Đang truy cập: 6

HIẾN CHẾ TÍN LÝ VỀ GIÁO HỘI - LUMEN GENTIUM (3)

CHƯƠNG III

VỀ CƠ CẤU PHẨM TRẬT GIÁO HỘI
VÀ ĐẶC BIỆT VỀ CHỨC GIÁM MỤC

 

18.

Để chăn dắt và phát triển Dân Thiên Chúa luôn mãi, Đức Kitô đã thiết lập các thừa tác vụ khác nhau trong Giáo Hội để mưu ích cho toàn Thân Mình. Thật vậy, khi đã được trao ban quyền bính thánh thiêng, các thừa tác viên phục vụ anh chị em mình để mọi người trong đoàn Dân Thiên Chúa đang thực sự hưởng nhận phẩm giá Kitô hữu, có thể đạt đến ơn cứu độ, nhờ cùng nỗ lực trong tự do và trật tự hướng về cùng một cứu cánh.

Bước theo Công Đồng Vaticanô I, Thánh Công Đồng này cùng chung lời giảng dạy và tuyên bố rằng Chúa Giêsu Kitô, vị Mục tử vĩnh hằng, đã thiết lập Giáo Hội thánh thiện khi sai các Tông đồ như chính Người đã được Chúa Cha sai đến (x. Ga 20,21); Người đã muốn những người kế vị các Tông đồ, tức là các Giám mục, sẽ nên những chủ chăn trong Giáo Hội cho đến tận thế. Nhưng để chính chức Giám mục được duy nhất và không bị phân chia, Chúa đã đặt thánh Phêrô đứng đầu các Tông đồ khác và đã thiết lập thánh nhân nên nguyên lý và nền tảng trường tồn và hữu hình của sự hợp nhất trong đức tin và của sự hiệp thông 37. Một lần nữa Thánh Công Đồng nêu lên cho tất cả các tín hữu giáo lý đức tin vững vàng về sự thiết lập và sự trường tồn, về giá trị và ý nghĩa của quyền tối thượng nơi Giám mục Rôma cũng như về quyền giáo huấn bất khả ngộ của ngài, và tiếp nối theo đó, Thánh Công Đồng cũng muốn tuyên xưng và công bố cho mọi người giáo lý về các Giám mục, những người kế vị các Tông đồ, cũng là những người cai quản ngôi nhà của Thiên Chúa hằng sống, cùng với Đấng kế vị thánh Phêrô, là Đại diện Đức Kitô 38 và là Thủ lãnh hữu hình của toàn thể Giáo Hội.

19.

Sau khi cầu nguyện lâu giờ cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu đã gọi đến với mình những kẻ Người muốn và thiết lập Nhóm Mười Hai để họ ở với Người và để Người sai họ đi rao giảng Vương quốc Thiên Chúa (x. Mc 3,13-19; Mt 10,1-42); Người gầy dựng nhóm Tông đồ (x. Lc 6,13) theo thể thức một hiệp đoàn, nghĩa là một tập thể bền vững, trong đó Phêrô được chọn làm người đứng đầu (x. Ga 21,15-17). Người sai các Tông đồ đến với con cái Israel trước tiên, rồi đến với tất cả các dân nước (x. Rm 1,16), cho các ngài thông phần vào quyền năng của Người, để làm cho mọi dân tộc nên môn đệ Người, để thánh hoá và hướng dẫn họ (x. Mt 28,16-20; Mc 16,15; Lc 24,45-48; Ga 20,21-23); và như thế, các ngài mở mang Giáo Hội, và dưới sự hướng dẫn của Chúa, các ngài chăn dắt Giáo Hội bằng tác vụ mục tử mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20). Ngày lễ Ngũ Tuần, các ngài đã được kiện cường cách sung mãn trong sứ mệnh này (x. Cv 2,1-36) như lời Chúa hứa: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên các con, và khi ấy, các con sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Khi Tin Mừng được rao giảng khắp nơi (x. Mc 16,20) và được những người nghe đón nhận nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, các Tông đồ quy tụ Giáo Hội phổ quát mà Chúa đã thiết lập trên các Tông đồ và xây dựng trên nền đá Phêrô, thủ lãnh của các ngài, với viên đá góc là chính Đức Giêsu Kitô (x. Kh 21,14; Mt 16,18; Ep 2,30) 39.

 

Ch. III. Cơ cấu phẩm trật - Giám mục

20.

Sứ mệnh thần linh đã được Đức Kitô trao phó cho các Tông đồ phải được thực thi mãi cho đến tận thế (x. Mt 28,20), vì đối với Giáo Hội, Tin Mừng được các ngài chuyển giao chính là nguyên lý của toàn bộ đời sống Giáo Hội qua mọi thời đại. Vì thế, các Tông đồ đã cẩn thận chỉ định những người kế vị trong Giáo Hội, một cộng đồng được tổ chức theo phẩm trật.

Thật vậy, không chỉ để có thêm những người phụ tá trong các tác vụ 40, nhưng còn để cho sứ mệnh đã được trao phó có thể được tiếp tục sau khi các ngài qua đời, các Tông đồ đã ký thác, như một lời di chúc, cho các cộng sự viên trực tiếp của mình nhiệm vụ hoàn tất và củng cố công trình các ngài đã khởi sự 41, đồng thời căn dặn họ coi sóc toàn thể đoàn chiên trong đó Chúa Thánh Thần đã đặt họ làm người chăn dắt Giáo Hội của Thiên Chúa (x. Cv 20,28). Bởi vậy, các ngài chỉ định những người theo tiêu chí đó, và trao ban chức vị để khi các ngài qua đời, những người đã được thử luyện sẽ đảm nhận tác vụ của các ngài 42. Trong số các thừa tác vụ khác nhau được thi hành trong Giáo Hội từ buổi sơ khai, theo chứng từ của Truyền Thống, thì vị trí chính yếu thuộc về phận vụ của những người đã được chỉ định vào chức Giám mục và do sự kế vị liên tục ngay từ đầu 43, các ngài được coi là những người lưu chuyển dòng dõi tông truyền 44. Như thế, theo chứng từ của thánh Irênê, Truyền thống Tông đồ được tỏ hiện và được bảo tồn trên khắp hoàn cầu 45 nhờ những vị được các Tông đồ đặt làm Giám mục và nhờ những người kế vị các ngài cho đến chúng ta ngày nay 46.

Như vậy, các Giám mục nhận lãnh tác vụ coi sóc cộng đoàn cùng với các linh mục và phó tế làm phụ tá 47 khi thay mặt Thiên Chúa lãnh đạo đoàn chiên 48 mà các ngài là những chủ chăn, với tư cách là thầy dạy giáo thuyết, tư tế lo phụng tự thánh và thừa tác viên lo việc cai quản 49. Tương tự như phận vụ Chúa đã trao phó cho riêng thánh Phêrô, vị Tông đồ trưởng, là một phận vụ trường tồn và phải được trao lại cho những người kế vị ngài, cũng thế, phận vụ chăn dắt Giáo Hội mà các Tông đồ nhận lãnh cũng trường tồn và được thi hành không gián đoạn nhờ thánh chức Giám mục 50. Vì thế, Thánh Công Đồng dạy rằng chính Chúa đã lập các Giám mục kế vị các Tông đồ 51 với tư cách là những chủ chăn Giáo Hội, ai nghe các ngài là nghe Đức Kitô, còn ai khước từ các ngài là khước từ Đức Kitô và Đấng đã sai Đức Kitô (x. Lc 10,16) 52.

21.

Như thế, chính Chúa Giêsu Kitô, Linh mục Thượng phẩm, hiện diện giữa các tín hữu qua các Giám mục được các linh mục trợ giúp. Dù đang ngự bên hữu Chúa Cha, Đức Kitô vẫn luôn hiện diện giữa cộng đoàn qua các vị giáo trưởng của Người 53, nhưng trên hết, chính qua sự phục vụ cao cả của các ngài mà Đức Kitô công bố lời Thiên Chúa cho các dân nước và không ngừng cử hành các bí tích đức tin cho các tín hữu, qua sự chăm sóc đầy tình hiền phụ của các ngài (x. 1 Cr 4,15), Đức Kitô dùng ơn tái sinh siêu nhiên để nhập hiệp những chi thể mới vào Thân Mình Người, sau cùng, qua sự khôn ngoan thận trọng của các ngài, Đức Kitô dẫn dắt và hướng dẫn Dân của Tân ước trong cuộc lữ hành tiến về hạnh phúc muôn đời. Được chọn để chăn dắt đoàn chiên của Chúa, các vị chủ chăn ấy là những người phục vụ Đức Kitô và quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa (x. 1 Cr 4,1), những người được ủy thác sứ vụ làm chứng cho Tin Mừng của ân sủng Thiên Chúa (x. Rm 15,16; Cv 20,24) cũng như việc phục vụ Thần Khí và đức công chính trong vinh quang (x. 2 Cr 3,8-9).

Để chu toàn những trách vụ vô cùng cao quý ấy, các Tông đồ đã được Đức Kitô đổ tràn Thánh Thần cách đặc biệt (x. Cv 1,8; 2,4; Ga 20,22-23), và chính các ngài lại đặt tay ban truyền ân huệ thánh thiêng này cho các cộng sự viên (x. 1 Tm 4,14; 2 Tm 1,6-7), và ân huệ ấy cứ mãi được chuyển thông cho đến chúng tôi trong ơn thánh hiến Giám mục 54. Và Thánh Công Đồng dạy rằng việc thánh hiến Giám mục trao ban sự sung mãn của bí tích Truyền Chức mà cả phụng vụ của Giáo Hội lẫn các thánh Giáo phụ đều gọi là chức tư tế thượng phẩm, là bậc cao nhất của thừa tác vụ thánh 55. Việc thánh hiến Giám mục trao ban tác vụ thánh hoá cũng như tác vụ giảng dạy và cai quản, những tác vụ mà tự bản tính chỉ có thể thực thi trong sự hiệp thông phẩm trật với vị Thủ lãnh và các thành viên của Giám mục đoàn. Thật vậy, theo truyền thống được biểu hiện cách đặc biệt nơi các nghi thức phụng vụ và trong thực hành của Giáo Hội Đông phương cũng như Tây phương, rõ ràng là qua việc đặt tay và các lời thánh hiến, ân sủng Thánh Thần được thông ban 56 và ấn tích thánh được ghi dấu 57, từ đó các Giám mục đảm nhận cách trổi vượt và hữu hình vai trò của chính Đức Kitô là Tôn sư, là Mục tử và là Thượng tế, đồng thời hành động trong tư cách là hiện thân của Người 58. Các Giám mục có thẩm quyền ban bí tích Truyền Chức Thánh để nhận vào Giám mục đoàn những người mới được tuyển chọn.

22.

Do Chúa thiết định, thánh Phêrô và các Tông đồ khác đã tạo thành một Tông đồ đoàn duy nhất, cũng với cách thức tương tự, Giáo Hoàng Rôma là người kế vị thánh Phêrô, cùng với các Giám mục là những người kế vị các Tông đồ luôn liên kết với nhau. Thật vậy, bản chất và đặc tính hiệp đoàn của chức Giám mục được thể hiện qua một định chế có từ xa xưa, theo đó các Giám mục trên khắp hoàn cầu luôn thông hiệp với nhau và với Giáo Hoàng Rôma bằng mối dây hiệp nhất, bác ái và bình an59, cũng như qua việc triệu tập các Công Đồng60 để cùng nhau quyết nghị về những vấn đề quan trọng hơn61, bằng những định chế đã được cân nhắc với ý kiến của nhiều người62; các Công Đồng chung được nhóm họp trong các thế kỷ xác nhận rõ ràng điều này. Và bản chất hiệp đoàn ấy cũng đã được đưa vào một tập tục xa xưa, qua việc mời nhiều Giám mục đến cùng cử hành nghi lễ tấn phong cho người vừa được chọn để nhận lãnh tác vụ tư tế tối cao. Một người được thiết định là thành viên của cộng đoàn Giám mục nhờ sự thánh hiến bí tích và nhờ sự hiệp thông phẩm trật với vị Thủ lãnh và những phần tử của Giám mục đoàn.

Tuy nhiên, Giám mục đoàn hoặc cộng đoàn Giám mục chỉ có thể hành quyền khi hợp nhất với Giáo Hoàng Rôma, Đấng kế vị thánh Phêrô, như là với Thủ lãnh của Giám mục đoàn, trong khi quyền tối thượng của ngài trên tất cả các Chủ chăn và tín hữu vẫn được bảo toàn trọn vẹn. Thật vậy, do phận vụ của mình là đại diện Đức Kitô và là Chủ chăn của toàn thể Giáo Hội, Giáo Hoàng Rôma có thẩm quyền trọn vẹn, tối cao và phổ quát trong Giáo Hội và luôn có thể tự do thực thi quyền bính này. Về phần Giám mục đoàn, với tư cách kế nhiệm Tông đồ đoàn trong trách nhiệm huấn giáo và điều hành mục vụ, nhất là làm cho cộng đoàn Tông đồ được trường tồn, khi hợp nhất với vị Thủ lãnh là Giáo Hoàng Rôma, và không bao giờ được thiếu vắng Thủ lãnh này, cộng đoàn Giám mục ấy cũng là chủ thể có quyền hành trọn vẹn và tối cao trên Giáo Hội phổ quát63, đây là quyền bính chỉ có thể được thực thi khi có sự ưng thuận của Giáo Hoàng Rôma. Chúa đã đặt một mình Phêrô làm nền đá và là người giữ chìa khoá của Giáo Hội (x. Mt 16,18-19), và đã đặt ngài làm Chủ chăn của toàn thể đoàn chiên Chúa (x. Ga 21,15tt.); nhưng riêng nhiệm vụ tháo gỡ và cầm buộc đã được ban cho Phêrô (Mt 16,19), thì rõ ràng Người cũng đã ban cho cả cộng đoàn Tông đồ liên kết với vị thủ lãnh của mình (x. Mt 18,18; 28,16-20)64. Với hình ảnh được tạo thành bởi nhiều thành viên, Giám mục đoàn diễn tả đặc tính đa dạng và phổ quát của Dân Thiên Chúa; còn trong cách thức được quy tụ dưới quyền một vị thủ lãnh duy nhất, cộng đoàn Giám mục diễn tả tính duy nhất của đoàn chiên Đức Kitô. Trong cộng đoàn này, trong khi vẫn trung thành tôn trọng quyền tối thượng và tính cách chủ yếu của vị thủ lãnh, các Giám mục thực thi thẩm quyền riêng vì thiện ích của các tín hữu và hơn nữa của toàn thể Giáo Hội, đang khi đó, Chúa Thánh Thần vẫn không ngừng củng cố cơ cấu tổ chức và sự hoà hợp trong Giáo Hội. Quyền tối cao của Giám mục đoàn trên toàn thể Giáo Hội được thi hành cách trọng thể trong Công Đồng chung. Nhưng không bao giờ có một Công Đồng chung nếu không được người kế vị thánh Phêrô phê chuẩn hay ít ra chấp nhận; và vị Giáo Hoàng Rôma có đặc quyền triệu tập, chủ tọa và phê chuẩn các Công Đồng này65. Hợp nhất với Giáo Hoàng, các Giám mục cư ngụ trên khắp thế giới có thể thi hành quyền cộng đoàn ấy khi vị thủ lãnh mời gọi các ngài thực hiện một hành động tập thể, hay ít ra phê chuẩn hoặc sẵn lòng chấp nhận hành động mang tính liên kết của những Giám mục đang ở nhiều nơi khác nhau, xem đó thực sự là một hành động tập thể.

23.

Sự hợp nhất của Giám mục đoàn cũng thể hiện qua những mối liên hệ hỗ tương giữa mỗi Giám mục với Giáo Hội địa phương và Giáo Hội phổ quát. Vị Giáo Hoàng Rôma, Đấng kế vị Phêrô, là nguyên lý và nền tảng vĩnh viễn, hữu hình66 của sự hợp nhất giữa các Giám mục cũng như giữa các tín hữu. Còn mỗi Giám mục là nguyên lý và nền tảng hữu hình của sự hợp nhất trong Giáo Hội địa phương của mình67 vốn được hình thành theo hình ảnh Giáo Hội phổ quát, chính nhờ và trong các Giáo Hội này mà có một Giáo Hội Công giáo duy nhất68. Chính vì lẽ này, mỗi Giám mục tiêu biểu cho Giáo Hội mình, và tất cả các Giám mục, cùng với Giáo Hoàng, tiêu biểu cho toàn thể Giáo Hội trong mối dây bình an, yêu thương và hợp nhất.

Mỗi Giám mục, người được đặt đứng đầu một Giáo Hội địa phương, thi hành việc điều hành mục vụ trên một phần của đoàn dân Thiên Chúa được trao phó cho mình, chứ không phải trên các Giáo Hội khác hoặc trên Giáo Hội phổ quát. Nhưng với tư cách là thành viên của Giám mục đoàn và là người kế vị hợp pháp của các Tông đồ, mỗi Giám mục, do sự thiết định và mệnh lệnh của Đức Kitô, có bổn phận69 ân cần chăm lo cho toàn thể Giáo Hội, một sự chăm lo, cho dù không được thực thi bằng một hành động thuộc quyền tài thẩm, vẫn mang lại rất nhiều lợi ích cho Giáo Hội phổ quát. Thật vậy, tất cả các Giám mục có nhiệm vụ phát huy và bảo vệ tính duy nhất của đức tin và kỷ luật chung của toàn Giáo Hội, dạy cho tín hữu biết yêu mến toàn Nhiệm Thể Đức Kitô, nhất là các chi thể nghèo khó, đau khổ và đang chịu bách hại vì sự công chính (x. Mt 5,10), sau cùng các ngài còn có nhiệm vụ phát huy mọi hoạt động sinh ích lợi cho toàn thể Giáo Hội, nhất là để giúp tăng triển đức tin và làm cho ánh sáng chân lý toàn vẹn chiếu soi trên mọi người. Ngoài ra, điều quan trọng là khi khôn ngoan cai quản Giáo Hội địa phương là một phần của Giáo Hội phổ quát, các Giám mục đã góp phần hữu hiệu vào thiện ích của toàn Nhiệm Thể cũng chính là thân mình của các Giáo Hội70.

Chăm lo việc rao giảng Tin Mừng cho khắp thế giới là phận vụ của cộng đoàn các mục tử, đây là bổn phận chung mà Đức Kitô đã truyền lệnh buộc tất cả các ngài đều phải thực thi, như Đức Giáo Hoàng Cêlestinô đã nhắc nhở các Nghị phụ Công Đồng Êphêsô71. Vì thế mỗi Giám mục, theo mức độ thực thi phận vụ riêng của mình, phải cộng tác với nhau và với Đấng kế vị thánh Phêrô là người được ủy thác cách cá biệt nhiệm vụ cao cả là truyền bá danh Chúa Kitô72. Do đó, các Giám mục phải dốc toàn lực đóng góp vào việc truyền giáo bằng cách cung cấp cả những thợ gặt lẫn những trợ giúp thiêng liêng và vật chất, hoặc do chính mình trực tiếp hoặc khơi dậy sự cộng tác nhiệt thành của các tín hữu. Sau cùng, trong sự hiệp thông phổ quát của đức ái, theo gương lành đáng quý của thời xưa, các Giám mục phải sẵn lòng mang đến sự trợ giúp huynh đệ cho các Giáo Hội khác, nhất là cho những Giáo Hội lân cận và túng thiếu hơn.

Chúa Quan phòng đã muốn các Giáo Hội đã được các Tông đồ và những người kế vị thành lập tại nhiều nơi khác nhau theo dòng thời gian, tụ họp lại thành nhiều nhóm liên kết với nhau một cách có tổ chức, các nhóm này được có kỷ luật riêng, phụng vụ riêng, di sản thần học và thiêng liêng riêng, trong khi vẫn luôn gìn giữ sự hợp nhất trong đức tin cũng như cơ cấu duy nhất và thần linh của Giáo Hội phổ quát. Một số trong các Giáo Hội ấy, nhất là những Giáo Hội cổ xưa có toà Thượng phụ, tựa như những người mẹ trong đức tin, có thể nói đã sinh ra nhiều người con là các Giáo Hội khác, và cho đến nay vẫn còn liên kết với nhau bằng mối dây bác ái khá mật thiết trong đời sống bí tích và trong sự tôn trọng lẫn nhau về quyền lợi cũng như nghĩa vụ73. Sự dị biệt nơi các Giáo Hội địa phương đang hướng về sự hợp nhất càng minh chứng rõ ràng đặc tính công giáo của một Giáo Hội không thể phân ly. Cũng thế, ngày nay các Hội đồng Giám mục có thể góp phần phong phú và hiệu quả để thể hiện cụ thể tinh thần cộng đoàn.

24.

Vì là những người kế vị các Tông đồ, các Giám mục lãnh nhận từ Chúa, Đấng được ban mọi quyền năng trên trời dưới đất, sứ mệnh dạy dỗ muôn dân và rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật, để mọi người được cứu độ nhờ lãnh nhận đức tin, phép Thánh tẩy và chu toàn các giới răn Chúa (x. Mt 28,18-20; Mc 16,15-16; Cv 26,17tt.). Để hoàn thành sứ mệnh đó, Đức Kitô đã hứa ban Thánh Thần cho các Tông đồ, và trong ngày lễ Ngũ tuần, Người đã cử Thánh Thần từ trời xuống, nhờ sức mạnh của Ngài, các Tông đồ trở nên chứng nhân cho Đức Kitô đến tận cùng trái đất, trước mọi dân, mọi nước và vua chúa (Cv 1,8; 2,1tt.; 9,15). Nhiệm vụ Chúa đã trao phó cho các Chủ chăn của dân Người đích thực là một việc phục vụ mà Thánh Kinh gọi rõ ràng là “diakonia” hay thừa tác vụ (x. Cv 1,17 và 25; 21,19; Rm 11,13; 1 Tm 1,12).

Sứ vụ theo Giáo luật của các Giám mục có thể được thực thi, hoặc theo tập tục hợp pháp mà quyền tối thượng và phổ quát của Giáo Hội vẫn còn chấp nhận, hoặc theo các luật lệ được thẩm quyền ấy ban hành hay thừa nhận, hoặc trực tiếp do chính Đấng kế vị Thánh Phêrô; nhưng nếu Đức Giáo Hoàng phản đối hoặc không thừa nhận sự hiệp thông tông truyền nơi Giám mục nào, thì vị đó không được đảm nhận trách vụ74.

--- Còn tiếp ---

-------------------------------------------------------------------------------

[37] x. CĐ VATICANÔ I, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Chúa Kitô Pastor „ternus: DS 1821 (3050t).

[38] x. CĐ FIRENZE, Decretum Pro Gr„cis: DS 694 (1307) và CĐ VATICANÔ I: DS 1826 (3059).

[39] x. T. GRÊGÔRIÔ, Liber Sacramentorum, Kinh Tiền Tụng lễ sinh nhật thánh Matthia và Tôma: PL 78, 51 và 152; x. Cod. Vat. lat. 3548, f. 18; T. HILARIÔ, In Ps. 67, 10: PL 9, 450; CSEL 22, tr. 286; T. HIÊRÔNIMÔ, Adv. Iovin, 1, 26: PL 23, 247A; T. AUGUSTINÔ, In Ps. 86, 4: PL 37, 1103; T. GRÊGÔRIÔ CẢ, Mor. In Iob, XXVIII, V: PL 76, 455-456; PRIMASIÔ, Comm. in Apoc. V: PL 68, 924BC; PASCHASIÔ RADBERTÔ, In Mt, c. VIII, ch. 16: PL 120, 561C; x. LÊÔ XIII, Thư Et sane, 17.12.1888: ASS 21 (1888), tr. 321.

[40] x. Cv 6,2-6; 11,30; 13,1; 14,23; 20,17; 1 Ts 5,12-13; Pl 1,1; Cl 4,11 và nhiều chỗ khác.

[41] x. Cv 20,25-27, 2 Tm 4,6t., so sánh với 1 Tm 5,22; 2 Tm 2,2; Tt 1,5; T. CLÊMENTÊ RÔMA, Ad Cor. 44, 3: xb. Funk, I, tr. 156.

[42] T. CLÊMENTÊ RÔMA, Ad Cor, 44, 2: xb. Funk, I, tr. 154tt.

[43] x. TERTULLIANÔ, Pr„scr. H„r. 32: PL 2, 52t; T. IGNATIÔ, nhiều chỗ khác.

[44] x. TERTULLIANÔ, Pr„scr. H„r. 32: PL 2, 53.

[45] x. IRÊNÊÔ, Adv. H„r. III, 3, 1: PG 7, 848A; HARVEY 2, 8; SAGNARD, tr. 100: “manifestatam”.

[46] x. T. IRÊNÊÔ, Adv. H„r. III, 2, 2: PG 7, 847; HARVEY 2, 7; SAGNARD, tr. 100: “custoditur”, x. T. IRÊNÊÔ, IV, 26, 2: cột 1053; HARVEY 2, 236, cả IV, 33, 8: cột 1077; HARVEY 2, 262.

[47] T. IGNATIÔ Tử đạo, Philad, lời mở đầu: xb. Funk, I, tr. 264.

[48] T. IGNATIÔ Tử đạo, Philad, 1, 1; Magn., 6, 1: xb. Funk I, tr. 264 và 234.

[49] T. CLÊMENTÊ RÔMA, Ad Cor, 42, 3-4; 44, 3-4, 57, 1-2: xb. Funk, I, tr. 152, 156, 171tt.; T. IGNATIÔ Tử đạo, Philad. 2; Smyrn. 8; Magn., 3; Trall. 7: xb. Funk I, tr. 265t.; 282; 232; 246tt. v.v…; T. GIUSTINÔ, Apol, 1, 65: PG 6, 428; T. CYPRIANÔ, Epist, nhiều chỗ khác.

[50] x. LÊÔ XIII, Thông điệp Satis cognitum, 29.6.1896: ASS 28 (1895-96), tr. 732.

[51] x. CĐ TRENTÔ, Sắc lệnh De sacr. Ordinis, ch. 4: DS 960 (1768); CĐ VATICANÔ I, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Chúa Kitô Pastor „ternus, ch. 3: DS 1828 (3061); PIÔ XII, Thông điệp Mystici Corporis, 29.6.1943: AAS 35 (1943), tr. 209 và 212; Giáo Luật, 329 §1.

[52] x. LÊÔ XIII, Thư Et sane, 17.12.1888: ASS 21 (1888), tr. 321t.

[53] x. T. LÊÔ Cả, Serm. 5, 3: PL 54, 154.

[54] CĐ TRENTÔ, Khoá 23, ch. 3, trích 2 Tm 1,6-7 để chứng minh phép truyền chức Thánh thật sự là một bí tích: DS 959 (1766).

[55] Trong Trad. Apost. 3, xb. Botte, Sources Chrétiennes, tr. 27-30, Giám mục có chức tư tế nhất phẩm (primatus sacerdotii); x. Sacramentarium Leonianum, xb. C. Mohlberg, Sacramentarium Veronense, Rôma, 1955, tr. 119: “đưa đến tác vụ linh mục tối cao… xin hoàn tất đỉnh cao của mầu nhiệm nơi các linh mục của Chúa…”; Trad. Apost., Liber Sacramentorum Roman„ Ecclesi„, Rôma, 1960, tr. 121-122: “Lạy Chúa, xin ban cho họ ngai toà Giám mục để họ điều khiển Giáo Hội Chúa và toàn dân”: x. PL 78, 224.

[56] x. Trad. Apost. 2: xb. Botte, tr. 27.

[57] x. CĐ TRENTÔ, Khoá 23, ch. 4, dạy rằng bí tích Truyền Chức khắc ghi ấn tích bất khả tiêu hủy: DS 960 (1767); x. GIOAN XXIII, Huấn từ Iubilate Deo, 8.5.1960: AAS 52 (1960), tr. 466; PHAOLÔ VI, Bài giảng tại Vương cung Thánh đường Vaticanô, 20.10.1963: AAS 55 (1963), tr. 1014.

[58] T. CYPRIANÔ, Epist. 63, 14: PL 4, 386; HARTEL, IIIB, tr. 713: “Linh mục thật sự hành động thay Chúa Kitô”; T. GIOAN KIM KHẨU, In 2 Tim, Bài giảng 2, 4; PG 62, 612: Linh mục là “biểu tượng” (symbolon) của Chúa Kitô; T. AMBRÔSIÔ, In Ps. 38, 25-26: PL 14, 1051-52: CSEL 64, 203-204; AMBROSIASTER, In 1 Tim 5, 19: PL 17, 479C và In Ep 4, 11-12; cột 387C; THEODORUS MOPSUESTIA, Hom Catech, XV, 21 và 24: xb. Tonneau, tr. 497 và 503; HESYCHIUS HIEROS., In Lev., L. 2, 9, 23: PG 93, 894B.

[59] x. EUSÊBIÔ, Hist. Eccl. V, 24,10: GCS II, 1, tr. 495; BARDY, Sources Chr. II, tr. 69; ĐIÔNYSIÔ, trong Eusêbiô, VII, 5, 2: GCS II, 2, tr. 638tt.; BARDY, II, tr. 168tt.

[60] x. Về các Công Đồng thời trước, EUSÊBIÔ, Hist, Eccl. V, 23-24: GCS II, 1, tr. 488tt.; BARDY, II, tr. 66tt. và nhiều chỗ khác; CĐ NICÊA, điều 5: Conc. Oec. Decr, tr. 7.

[61] TERTULLIANÔ. De Ieiunio, 13: PL 2, 972; CSEL 20, tr. 292, hàng 13-16.

[62] T. CYPRIANÔ, Epist. 56,3: CSEL (Hartel), IIIB, tr. 650; BAYARD, tr. 154.

[63] x. Phúc trình chính thức của Zinelli, trong CĐ VATICANÔ I: Mansi 52, 1109C.

[64] x. CĐ VATICANÔ I, Lược đồ Hiến chế Tín lý II, De Ecclesia Christi, ch. 4: Mansi 53, 310; x. Phúc trình của Kleutgen về lược đồ sửa lại: Mansi 53, 321B-322B và Tuyên bố của Zinelli: Mansi 52, 1110A; cũng xem, T. LÊÔ CẢ, Serm, 4, 3: PL 54, 151A.

[65] x. Giáo Luật, 222 và 227.

[66] x. CĐ VATICANÔ I, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Chúa Kitô Pastor „ternus: DS 1821 (3050t).

[67] x. T. CYPRIANÔ, Epist. 66, 8: CSEL (Hartel) III, 2, tr. 733: “Giám mục trong Giáo Hội và Giáo Hội trong Giám mục”.

[68] x. T. CYPRIANÔ, Epist. 55, 24: Hartel, tr. 642, hàng 13: “Một Giáo Hội tản mác khắp thế giới với nhiều phần tử”; Epist. 36, 4: Hartel, tr. 575, hàng 20-21.

[69] x. PIÔ XII, Thông điệp Fidei Donum, 21.4.1957: AAS 49 (1957), tr. 237.

[70] x. T. HILARIÔ, In Ps. 14, 3: PL 9, 206; CSEL 22, tr. 86; T. GRÊGÔRIÔ CẢ, Moral. IV, 7, 12: PL 75, 643C; PSEUĐÔ-BASILIÔ, In Is. 15, 296: PG 30, 637C.

[71] T. CÊLESTINÔ, Epist. 18, 1-2, gửi đến Công Đồng Eph.: PL 50, 505AB; SCHWARTZ, Acta Conc. „c. I, 1, 1, tr. 22; x. BÊNÊĐICTÔ XV, Tông thư Maximum Illud: AAS 11 (1919), tr. 440; PIÔ XI, Thông điệp Rerum Ecclesi„, 28.2.1926: AAS 18 (1926), tr. 69; PIÔ XII, Thông điệp Fidei Donum, 21.4.1957: AAS 49 (1957), tr. 237.

[72] LÊÔ XIII, Thông điệp Grande Munus, 30.9.1880: AAS 13 (1880), tr. 145; x. Giáo Luật, 1327, 1350 §2.

[73] Về năng quyền của các Toà Thượng phụ, xem CĐ NICÊA điều 6 về Alexandria và Antiôchia, và điều 7 về Giêrusalem: Conc. ¬c. Decr., tr. 8; CĐ LATÊRANÔ IV, năm 1215, Hiến chế V: De Dignitate Patriarcharum: Conc. ¬c. Decr., tr. 212; CĐ FERR.- FIRENZÊ: Decretum Pro Gr„cis: DS 694 (1307), tr. 504.

 

zalo
zalo