Kitô học trong Ánh Sáng Thánh Linh
6/18/2015 11:39:57 PM – Bày tỏ nguyện vọng, đôi lúc khẩn thiết, muốn thấy có được một khoa Kitô học đượm nhuần bản sắc “thần khí” và gồm hàm những yếu tố cần cho việc tìm hiểu về Đức Kitô trong tương quan với Thánh Linh, là một sự kiện thường gặp thấy trong thời đại ngày nay[2].
Bởi vì, hễ đã đọc Kinh Thánh, thì không ai mà không nhận ra ngay rằng đó là một mối tương quan cốt tủy; tuy thế, thần học cũng vẫn chưa quan tâm cho lắm đến việc khai triển mầu nhiệm của nó. Theo thánh Baxiliô, thì Thần Khí là “người bạn keo sơn của Đức Kitô”[3] ; dù vậy, cho đến nay, Kitô học và Thánh Linh học thường tiến theo những đường hướng trái ngược nhau, không quan tâm đối chiếu với nhau, gây thiệt thòi cho cả đôi bên.
I. Một Khoa Kytô Học Vắng Bóng Thần Khí
Có một thời, suốt nhiều thế kỷ dài, đã từng thấy thịnh hành một nền thần học về ơn cứu độ trong đó, không một vai trò nào đã được dành cho Thần Khí. Công trình cứu độ chỉ được coi như là tác phẩm của một con người- Chúa, có sức tự bởi thiên tính của mình, mang lại cho mỗi một hành động mình làm, một giá trị vô cùng. Và như thế, con người-Chúa có khả năng đền đáp thỏa đáng cho những gì công lý của Thiên Chúa đòi hỏi, và mang lại cho loài người, ơn tha thứ tội lỗi cũng như quyền được hưởng sự sống vĩnh cửu.
Nếu nhận thức như vậy, thì công trình cứu độ không còn được hiểu như là một mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa được giới thiệu qua diện mạo của một nền công lý vô biên, cần phải được giảng hòa, chứ không phải với diện mạo của một người Cha đã sinh Con mình ra trong thế gian cho chúng ta, qua Thánh Linh, cũng như đã đưa dẫn người Con ấy đi qua con đường sống và chết để tiến bước vào trong niềm viên mãn vĩnh phúc của đạo làm Con. Và theo nhãn quan ấy, Đức Giêsu được giới thiệu như là một con người mang thiên tính, có khả năng trả đủ giá để “tậu” ơn cứu độ, chứ không phải là như người Con đã được thụ thai trong Thánh Linh, và đã hướng theo tác động của Thần Khí mà ưng thuận đi qua con đường sống và chết đúng theo tôn ý của người Cha sinh mình ra. Thần Khí đã không được đích danh nhắc tới.
Nặng nề với tính chất pháp lý khe khắt và quá nặc mùi lý tính, nền thần học kia đã không thể mở lối đưa đường hầu dẫn tới gần mầu nhiệm cứu độ hơn được. Vì không biết nhận ra cho đúng mức vai trò của Thần Khí, nên nền thần học kia cũng đã lãng quên luôn tầm trọng yếu cứu độ của sự việc sống lại; mà không có sống lại, thì như Phaolô đã từng khẳng định, việc chết đi cũng chẳng có được một ý nghĩa cứu độ nào cả (1Cr 15, 17).
Nếu không được đính chính lại để hiểu cho đúng, thì nền thần học kia có thể trở thành nguyên cớ gây ra nhiều sai lạc. Bởi vì, nếu mọi sự đều được giải quyết bằng sự chết có đủ sức đền đáp thỏa đáng cho công lý, thì tại sao lại cần phải có Giáo Hội với các bí tích, tại sao lại cần phải có nổ lực dấn thấn của từng cá nhân qua “các việc lành” (xem Ep 2, 10) làm chi? Chẳng phải chỉ cần tin rằng Đức Kitô đã trả xong hết nợ cho chúng ta, và chỉ cần tín thác vào công lý của Thiên Chúa đã được giảng hòa nhờ giá chuộc ấy, là đã đủ lắm rồi đó sao? Tại sao còn phải nhất thiết cần đến việc sống hiệp thông với Đức Kitô?
Khi chỉ được nhận thức một cách riêng lẻ, tách rời ra khỏi mối tương quan với Thánh Linh, thì chẳng những công trình của Đức Giêsu không thôi, mà cả mầu nhiệm về cá nhân con người-Con Thiên Chúa cũng sẽ không được nhận thức cho đầy đủ theo toàn bộ chiều kích ba ngôi (trinitaire) của nó. Để lên án lạc thuyết Nestôriô (cho là trong Đức Giêsu Kitô, có hai chủ thể) và lạc giáo nhất tính (monophysisme : chủ trương rằng Đức Giêsu Kitô chỉ có một bản tính duy nhất là thiên tính), thì Công đồng chung Canxêđônia chỉ cần khẳng định rằng nơi Đức Kitô, có hai bản tính -- tức là nhân tính và thiên tính -- phối kết chặt chẽ với nhau trong cùng một ngôi vị Thiên Chúa duy nhất, tức là Ngôi Hai. Cho dù có dùng những khái niệm không mấy quen thuộc đối với Kinh Thánh, lời minh định ấy cũng hoàn toàn phù hợp với các dữ liệu tìm thấy trong Kinh Thánh. Tuy nhiên, ai cũng biết rằng không một tín điều nào có thể gói trọn hết mọi chiều kích phong phú của mầu nhiệm vào trong công thức có tính cách khái niệm của mình được. Tín điều do Công đồng chung Canxêđônia minh định, cũng không thể thoát khỏi vòng giới hạn của định luật ấy được.
Đúng thế, nếu để ra ngoài vòng liên hệ với Thần Khí, thì tín điều về một ngôi vị duy nhất trong hai bản tính vừa nhắc tới trên đây, chỉ mang được có một tính chất tĩnh định, tức là không nói rõ lên vị trí của Đức Kitô ở trong lịch sử, không mở đường cho tâm tư nghĩ tới tình trạng khác biệt -- dĩ nhiên là chủ yếu-- giữa cuộc sống dương thế và cuộc hiện hữu trong vinh quang của Đức Giêsu, cũng như không hấp thu được đà năng động đã từng thúc đẩy Đức Kitô bước vào cuộc sống và đi qua con đường chết để đạt tới niềm viên mãn của những gì làm nên bản chất của Người ngay từ đầu: làm Con Thiên Chúa, làm Đấng mang lại ơn cứu độ cho nhân thế. Và như thế, tín điều không nêu rõ khía cạnh cứu độ của mầu nhiệm Đức Kitô. Cho dù Công đồng có tuyên bố rõ là Đức Kitô “đồng bản tính với Thiên Chúa Cha theo thiên tính”[4], thì công thức minh định cũng không nêu rõ tính chất “làm Con” của Đức Giêsu, tức là mối tương quan cốt tủy Ngài có đối với Thiên Chúa xét theo tư cách “làm Cha.” Và do đó, công thức tín điều không nói gì tới tính chất ba ngôi của mầu nhiệm Nhập Thể, mà chỉ nhắm bắn cho trúng vào đích, tức là vào các lạc thuyết cần phải triệt hạ, chứ không nhằm biểu đạt trọn vẹn toàn bộ mầu nhiệm cứu độ.
Còn các học tuyết thịnh hành nhất về Thiên Chúa Ba Ngôi trong thần học, thì không soi sáng được gì nhiều cho mối tương quan giữa Đức Kitô và Thần Khí. Thậm chí, còn có thể ngờ là chính chúng đã thực sự tiếp tay để đào cho sâu thêm hố ngăn cách giữa Kitô học và Thánh Linh học. Học thuyết chủ trương cho rằng Thiên Chúa Cha một đàng sinh ra Chúa Con, và đàng khác “thở ra/thổi nên” (spire) Thần Khí, không nhất thiết phải giả định bất cứ một mối liên hệ nào ở giữa sự việc sinh ra Ngôi Con và sự việc nhiệm xuy (spiration) nên Thần Khí. -- Theo một học thuyết khác, thì Thần Khí nhiệm xuất(procéder) từ Ngôi Cha và Ngôi Con như thể là từ cùng một nguyên lý duy nhất không phân hóa (indifférencié ), cũng không nhất thiết đòi phải có một mối liên hệ cốt tủy nào giữa Ngôi Con xét theo tư thế cá thể, và Thánh Linh cả, bởi lẽ Ngôi Cha và Ngôi Con “thổi nên” (nhiệm xuy) nên Thần Khí, không phải theo tư thế riêng là Cha và là Con (mà là theo địa vị làm nguyên lý duy nhất không phân hóa)[5]. -- Trong cách thức diễn dịch bằng biểu đồ đường thẳng, theo đó, Ngôi Cha sinh ra Ngôi Con, và qua Ngôi Con, “thổi nên” Thần Khí, cũng chẳng nhận ra được hoặc là cũng chẳng nhận ra được mấy bản chất của mối liên hệ giữa Ngôi Con xét theo tiến trình phát sinh, và Thánh Linh xét theo tiến trình nhiệm xuất.
Các học thuyết trên đây đều hiểu rằng theo suy luận lôgíc của trí tuệ con người, thì sự việc sinh hạ Ngôi Con xảy ra Àtrước' hành động nhiệm xuy nên Thần Khí. Rồi, cả ở nơi Ngôi Cha trong chính tư thế là Cha, lẫn ở nơi Ngôi Con trong chính tư thế là Con, đều không thấy ghi dấu vết ấn tín của Thần Khí. Còn tiến trình hoạt động trong Thiên Chúa Ba Ngôi thì làm như đã đạt tới cùng đích ở nơi Thần Khí, và ngừng lại ở đó. Và như thế, người ta đã không mấy lưu tâm tới mầu nhiệm về thực trạng Ba Ngôi ở trong nhau (périchorèse/circumincession= tương tại tính ), cho dù đó chính là mầu nhiệm mà mọi khoa thần học về Thiên Chúa Ba Ngôi có bổn phận phải coi trọng; theo mầu nhiệm ấy, những gì nằm ở nơi cùng đích -- tức là Thánh Linh -- thì cũng có mặt ngay cả ở nơi khởi điểm. Các nổ lực tổng hợp và các cuộc tranh cãi đối chọi lẫn nhau giữa các học thuyết thần học kia cho thấy rằng để minh chứng cho tính chất chính đáng và chính thống của mình, hình như các học thuyết này cũng chẳng có thể tìm ra được những yếu tố cần thiết ở trong các dữ liệu Kinh Thánh liên quan đến Thánh Linh[6], cũng như trong mầu nhiệm mà Kinh Thánh xác nhận là chủ yếu: tức là mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, trong đó, Thiên Chúa Cha sinh ra Con của mình trong Thánh Linh[7].
II. Đức Kitô Trong Quan Hệ Với Thần Khí
Giáo Hội đã, đang và không ngừng được sinh ra từ mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô; rồi cũng chính từ đó, đức tin kitô đã được sinh ra, và đó chính là cội nguồn phát xuất sự hiểu biết về mầu nhiệm của Thiên Chúa. Các văn bản Tân Ước đã truyền lưu lại cho chúng ta những biểu đề đức tin cổ cựu hơn cả chính các văn bản ấy; mà các tín biểu (symboles de la foi) lại tổng kết toàn bộ chân lý đức tin bằng lời xác quyết về sự kiện Đức Giêsu đã chịu chết và đã sống lại: “Nếu anh em tin thật rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại” (1Tx 4,14; xem 1Cr 15,3-5)[8]. Hoặc là bằng một tổng lược đơn giản hơn với lời đơn thuần tuyên xưng Đức Kitô đã sống lại: “Nếu bằng miệng, bạn tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Chúa, và nếu tự trong đáy lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10, 9). Hay là ngay cả bằng cách tuyên xưng quyền chủ tể của Đấng Phục Sinh: “Không có thể tuyên xưng: ÀĐức Giêsu là Chúa' mà lại không phải bởi sức Thánh Linh” (1Cr 12,3; xem Cv 2, 36; Pl 2, 11). Lời xác quyết Đức Kitô đã sống lại, thu tóm trọn cả toàn bộ nội dung đức tin.
Vậy, nếu mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô là mầu nhiệm trung tâm, chủ yếu, thì làm sao mà thần học lại không có bổn phận phải lấy đó làm khởi điểm cho tiến trình suy tư của mình? Mà Đức Kitô, Đấng đã tự mạc khải mình ra qua cuộc tử nạn và phục sinh, lại được ghi dấu ngay ở trong con người và ở nơi công trình của mình, bằng ấn tín của chính Thần Khí.
1. Khi làm cho Người sống lại, Thiên Chúa đã trao ban cho Đức Kitô “danh tước trổi vượt mọi danh tước,” danh tướcKyrios , tức là Chúa : một danh tước chỉ được dành riêng cho một mình Thiên Chúa quyền năng vô biên (xem Pl 2,9-11) mà thôi. Mọi quyền năng trên trời và dưới đất đã được trao ban cho Người (xem Mt 28, 18). Nhưng khi làm cho sống lại, Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại trong Thánh Linh. Tông đồ Phaolô xác định điều đó một cách mặc nhiên mà chắc chắn qua những gì viết ở trong câu Rm 8, 11. Ngài cũng nói lên điều đó trong một cách thức tương tự khi viết: “Đức Kitô đã chịu đóng đinh vào thập giá vì lẽ xác phàm yếu đuối, nhưng Người đang sống bởi quyền năng Thiên Chúa” (2Cr 13, 4), bởi vì, đâu đâu trong toàn bộ Kinh Thánh, Thần Khí cũng xuất hiện dưới hình thái quyền lực toàn năng không ngừng hoạt động của Thiên Chúa: “Anh em sẽ nhận được quyền lực của Thần Khí đến trên anh em” (Cv 1, 8; Lc 24, 49). Thánh Phaolô cũng nói đến sự kiện đó ở trong Rm 6, 4: “Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết nhờ bởi vinh quang Thiên Chúa Cha,” vì lẽ, vinh quang của Thiên Chúa mà Kinh Thánh nói tới, tức là sự “tỏa rạng chói lọi của bản thể Thiên Chúa”[9], hay là tình trạng biểu hiện của quyền lực toàn năng trong Thiên Chúa -- “Vào buổi sáng, các ngươi sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa” (Xh 16, 7) -- được gắn liền với Thần Khí Thiên Chúa ngay từ trong Cựu Ước (xem Is 63,8-14); còn trong Tân Ước, thì vinh quang ấy được đồng nhất hóa với Ngôi Ba Thiên Chúa; thực vậy, Thần Khí chính là quyền lực tỏ hiện của Thiên Chúa, là “Thần Khí vinh quang, Thần Khí của Thiên Chúa” (1Pr 4, 14). Thánh Linh, quyền lực và vinh quang cấu thành một nguyên lý duy nhất qua đó, Thiên Chúa Cha đã làm cho Đức Giêsu sống lại. Cũng hệt như vậy đối với việc các tín hữu sống lại: “trong quyền năng” và “trong vinh quang,” họ sống lại “với xác thần thiêng (khí)” (1Cr 15, 43...).
Với cuộc sống lại, Đức Kitô nắm giữ quyền lực của Thiên Chúa: Ngài là “Chúa Tể vinh quang” (1Cr 2, 8), là Chúa Tể-thần khí (2Cr 3, 18), là “thần khí tác sinh” (1Cr 15, 45), bởi vì Ngài sống bằng Thần Khí của quyền lực và vinh quang; chính trong Thần Khí ấy, Ngài đã sống lại[10].
Nếu thế, thì không thể đề cập đến Đức Kitô-Chúa Tể mà không bàn tới Thần Khí, bởi vì, chính ở trong Thần Khí ấy, Đức Kitô Sống Lại sinh tồn và hoạt động. Nếu không có quyền lực và vinh quang, nghĩa là nếu không có Thánh Linh, thử hỏi làm sao Đức Kitô có thể làm Chúa Tể của quyền lực và vinh quang được? Mà cuộc sống lại chính là sự kiện vén mở cho thấy rằng qua sự chết, Đức Kitô đã được biến đổi từ trong gốc rễ của bản thể mình. Chúa Tể vinh quang, Đức Kitô-thần khí chính là Đức Giêsu muôn thuở ở trong trạng thái triển dương trọn vẹn của ân sủng Ngài vốn có từ ban sơ.
Cho dù tông đồ Phaolô có nhấn mạnh đến thực trạng khác biệt giữa sự yếu đuối xác phàm nơi Đức Giêsu tại thế, và quyền lực vinh quang của Ngài, thì ngay trong cuộc sống dương thế của Ngài, Thần Khí cũng đã biểu dương sự có mặt đầy quyền lực của mình ra: Đức Giêsu hành động với “quyền lực của Thần Khí” (Lc 4,4.18); Ngài trừ quỷ bằng ngón tay của Thiên Chúa (Lc 11, 20): theo Matthêu 12,28, ngón tay ấy là không gì khác hơn ngoài chính Thánh Linh. Có nhờ Thần Khí thì mới cắt nghĩa và thấu hiểu được cuộc sống của Đức Giêsu (xem Cv 10, 38), vì Thần Khí đã được ban xuống cho Ngài một cách khôn lường vô hạn (Ga 3, 34).
2. Với cuộc sống lại, cùng với danh xưng Chúa Tể, Đức Giêsu cũng nhận được danh tước Mêsia : “Thiên Chúa đã đặt Đức Giêsu mà các ngươi từng đóng đinh, làm Chúa Tể và làm Đấng Mêsia” (Cv 2, 36). Cuộc tiến bước vào trong vinh quang là “một cuộc xức dầu hoan lạc” (xem Dt 1, 9). Nhưng, Đức Giêsu có được hiển vinh, là hiển vinh trong Thánh Linh. Cuộc xức dầu tấn phong làm Đấng Mêsia qua sự việc sống lại là do Thần Khí thực hiện. Từ thời sống nơi dương thế, Đức Giêsu đã được “xức dầu bằng Thần Khí và quyền năng” (Cv 10, 38); bắt đầu rao giảng công khai, là Ngài tuyên bố ngay rằng: “Thần Khí Chúa ở trên tôi, bởi Người đã xức dầu cho tôi” (Lc 4, 18).
Là Chúa Tể, Đức Giêsu cũng là Đấng Mêsia, bởi lẽ Ngài đã được xức dầu bằng Thánh Linh. Không thể nào có được Đấng Mêsia (Đấng được Xức dầu, Đấng Kitô) mà lại không có việc xức dầu, mà lại không có Thánh Linh.
3. Bản chất làm Con Thiên Chúa và quyền Chúa Tể theo chức vụ Mêsia thì chặt chẽ gắn liền với nhau (Mt 16, 16; 26, 63; Lc 4, 41; Ga 1, 49). Một công thức cổ cựu, có trước các văn bản của Phaolô, ghi rằng: “Tin mừng (Phúc âm) của Thiên Chúa... (quan hệ đến) Con của Ngài, Đấng xuất thân tự dòng giống Đavít theo xác phàm, và đã được đặt làm Con Thiên Chúa trong quyền năng, theo Thần Khí (hay là: thần trí) thánh thiện, qua cuộc sống lại từ cõi chết” (Rm 1, 3tt). Đã có một thời, nhiều tác giả quan niệm một cách sai lầm rằng “thần trí thánh thiện” ấy chỉ về bản tính Thiên Chúa nơi Đức Kitô, tương ứng với bản tính loài người nơi con người xuất thân từ dòng giống Đavít[11]. Phần đông các tác giả hiện đại đều cho là từ ngữ ấy chỉ về Thánh Linh; có tác giả lại nghĩ là từ ngữ ấy muốn nói đến sự thánh thiện “tinh thần” (thiêng liêng) của Đức Kitô, một sự thánh thiện thuộc tầm tác động của Thánh Linh[12]. Dù sao, sự việc đưa Đức Giêsu lên ngôi làm “Con Thiên Chúa trong quyền năng” đã thành hiện thực trong Thánh Linh: việc ấy là kết quả của “cuộc sống lại từ cõi chết” nhờ Thánh Linh như chúng ta đã biết (xem Rm 8, 11).
Hành động Thiên Chúa làm cho Đức Giêsu sống lại là một hành động mang tính chất phụ tử, vì nó “đặt Ngài làm ConThiên Chúa trong quyền năng”; theo Cv 13, 33, thì hàng động ấy là hành động sinh hạ: “Thiên Chúa đã cho Đức Kitô sống lại, như lời đã chép trong Thánh vịnh thứ hai rằng: À Ngươi là Con Ta; hôm nay, Ta sinh ra ngươi'.” Thánh vịnh này cũng có thể được hiểu về một vì vua trần thế, hệt như lời của tiên tri Natan (2Sm 7, 14): “Ta sẽ là Cha nó, và nó sẽ là con Ta.” Tuy nhiên, khi áp dụng lời tiên tri này vào trường hợp của Đức Giêsu, đức tin kitô đã hiểu câu 2Sm 7, 14 theo nghĩa làm Con theo thiên tính, làm Con Một (Dt 1, 5), và đã giải thích Tv 2, 7 theo ý nghĩa của một hành động sinh hạ thực sự ở trong nội giới của chính bản tính Thiên Chúa (Dt 5, 5). Hành động sinh hạ này đạt đến mức hoàn thành vẹn toàn ở trong cuộc Đức Giêsu sống lại từ cõi chết.
Là công trình của Thiên Chúa theo bản chất làm Cha, và là công trình được thực hiện trong Thánh Linh, cuộc Đức Giêsu sống lại vén mở cho thấy rằng Thiên Chúa sinh ra Con của mình vào giữa thế gian, trong Thánh Linh, và rằng Đức Giêsu là Người Con đã được sinh ra trong quyền năng Thiên Chúa, tức là trong Thánh Linh, vì quyền năng ấy chính là Thánh Linh.
Không thể có chuyện làm Con Thiên Chúa mà lại không được vinh hiển giống như Thiên Chúa Cha[13] ”Chúng tôi đã được ngắm nhìn vinh quang của Ngài, vinh quang như của Con Một tự nơi Cha” (Ga 1, 14). Danh tước Con đã được dùng đến trong các đoạn trình thuật về những lần Đức Kitô hiển linh (christophanie): khi Ngài chịu phép rửa (Mt 3, 17, và các đoạn song song), lúc Ngài biến hình trên núi Tabor (Mt 17, 5, và các đoạn song song), trong cuộc thánh Phaolô trở lại, “khi Người (Thiên Chúa) đã có nhã ý mạc khải Con của Người cho...” (Gl 1, 16) thánh nhân. Đó cũng là danh tước dành cho Đức Giêsu trong giây phút Ngài tái giáng ngày cánh chung: “Chúng ta trông đợi Con của Người từ trời đến, Đấng mà Người đã làm cho sống lại từ cõi chết” (1Tx 1,1 0); “Thiên Chúa... đã đã kêu gọi chúng ta đến chung phần hiệp thông với Con của Người, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” trong Ngày của Người (1Cr 1,9)[14]. ”Con Thiên Chúa” là một danh tước vinh quang. Mà Thần Khí là vinh quang của Thiên Chúa; chính trong Người, Đức Giêsu đã sống lại -- “Ngài đã được vinh quang của Thiên Chúa Cha làm cho sống lại” (Rm 6, 4). Trong Thánh Linh, mầu nhiệm làm Con đạt tới mức hiển vinh của niềm viên mãn phục sinh; nhưng, cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu không gì khác hơn là mầu nhiệm làm Con muôn thuở được triển khai và vén mở đến tột độ: cuộc Vượt Qua ấy xác chứng rằng Đức Giêsu là Người Con trong Thánh Linh, và Thiên Chúa là Cha của Ngài.
Được soi chiếu bởi Đức Kitô vinh quang, không chút chần chừ, các tín hữu đã tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa ngay từ giây phút bắt đầu cuộc sống làm người, và từ thuở đó, đã được Thiên Chúa sinh hạ ra trong quyền năng của Thần Khí: “Thánh Linh sẽ đến trên bà, và quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà; vì thế , trẻ sắp sinh sẽ là thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1, 35). Con trẻ sẽ mang danh tước ấy, bởi vì được sinh ra do tác động của Thần Khí. Thần Khí là quyền lực toàn năng đầy công hiệu của Thiên Chúa, là vinh quang -- đám mây chiếu sáng -- rợp bóng trên Đức Maria. Và như thế, Đức Giêsu là con người có chính Thiên Chúa làm Cha.
Là thế nào lúc còn trong bào thai, thì Con Thiên Chúa trong Thánh Linh cũng vẫn mãi mãi là như vậy. Lúc chịu phép rửa, tiếng của Thiên Chúa Cha tuyên bố công nhận con người được Thần Khí hiện xuống với, chính là Con của Thiên Chúa (Mt 3, 17, và các đoạn song song); Gioan Tẩy Giả đã nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, bởi vì Thần Khí đã lưu lại trên Ngài (Ga 1,32-34). Dĩ nhiên là cũng nên nhắc tới đám mây sáng chói đã “rợp bóng” trên Đức Giêsu và hai vị tiên tri, Êlia và Môsê, đám mây mà Kinh Thánh gọi là “vinh quang của Thiên Chúa.” Từ trong đám mây, một tiếng nói đã vang lên, phán rằng: “Ngài là Con chí ái của Ta” (Mt 17, 5, và các đoạn song song). Địa vị làm Con Thiên Chúa và vinh quang thì không thể nào tách rời khỏi nhau được; còn đám mây vinh quang thì thế tất làm cho liên tưởng tới Thánh Linh. Các đoạn trình thuật trên đây về Truyền Tin, về phép rửa chịu từ tay Gioan Tẩy Giả, và về biến cố biến hình trên núi, đều quy hướng về với mầu nhiệm Vượt Qua mà chúng tiên báo: tức là mầu nhiệm về sự việc Thiên Chúa Cha làm cho Đức Giêsu sống lại trong Thánh Linh, đưa dẫn Ngài đạt tới niềm viên mãn của địa vị làm Con.
Thế mới rõ là nếu cứ đứng ngoài vòng quan hệ đối với Thánh Linh, thì không thể nào quan niệm nổi về bản chất làm Con Thiên Chúa nơi Đức Kitô. Hệt như mối tương quan với Thiên Chúa Cha, bản chất ấy là cốt tủy đối với con người Ngài, bởi vì, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa trong Thần Khí. Và chính vì là Con, nên Đức Giêsu mới là Chúa Tể-Mêsia. Vì vậy, câu hỏi sau đây đã được đặt ra: Thần Trí liên hệ như thế nào với bản chất làm Con Thiên Chúa trong Đức Kitô?
---Còn tiếp---
F.X. Durrwell, C.ss.R[1]
[Người dịch: Nguyễn Thế Minh, HTTH SỐ 7, NĂM THỨ BA (1993)]
Nguồn: siomonhoadalat.com
----------------------------------------------------------------------------
[1] Đây là bài viết nguyên văn Pháp ngữ của linh mục F.X. Durrwell, Dòng Chúa Cứu Thế, mang tựa đề Pour une christologie selon l'Esprit Saint , đăng trong tạp chí Nouvelle Revue Théologique , tập 114 (1992) 653-677. Tác giả hiện đang làm giáo sư thần học tại Strasbourg, Pháp. Xin lưu ý: từ Esprit Saint sẽ được dịch bằng từ Thánh Linh ; còn từEsprit/esprit thì bằng từ Thần Khí/thần khí
[2] Năm 1979, qua một loạt “Các câu hỏi chọn lọc về Kitô học” (Questions choisies de christologie), đăng trong tập Văn bản và Văn kiện (Textes et Documents), Ủy Ban Thần Học Quốc Tế đã nói lên ước vọng muốn thấy “chiều kích Thánh Linh học trong Kitô học” được đặt nặng nhiều hơn và coi trọng hơn nữa; trong cuốn Jésus le Christ , Paris, Cerf, 1976, W. Kasper cũng đã đề cao và cổ xúy cho chiều kích thần học ấy; còn H.U. Von Balthasar thì đã bàn rộng về chiều kích ấy trong tác phẩm Theologik, III Der Geist der Wahrheit , Einsiedeln, Johannes Verlag 1987.
[3] Th. Baxiliô, Traité du Saint-Esprit , XVI, 39, SC 17, tr. 180.
[4] Denzinger-Schonmetzer=Dz-Sch 301
[5] Điểm nhận định phê bình này không nhằm gì tới hoạt động của Ngôi Cha và Ngôi Con trong hành động nhiệm xuy nên Thần Khí, mà chỉ nhằm tới tính chất không phân hóa của hoạt động ấy, trong đó, theo chủ trương của một số học thuyết, cả Ngôi Cha lẫn Ngôi Con đều không hành động theo tư thế cá thể của mình, tức là theo tư thế làm Cha và làm Con
[6] Có những thần học gia đã phải thú nhận rằng cả đến Kinh Thánh, họ cũng không tham khảo tới, ít nhất là đối với những gì liên quan đến lãnh vực chủ yếu ấy của thần học về Thiên Chúa Ba Ngôi, tức là liên quan đến mối tương quan giữa Thần Khí và Chúa Con; xin xem P. Evdokimov, Présence de l'Esprit dans la tradition orthodoxe , coll. Foi Vivante, Paris, Cerf, 1977, tr. 49. M. A. Chevallier cũng đã lấy làm tiếc mà ghi nhận như vậy; xem L'Evangile de Jean et le Filioque , trongRSR 57(1963)93.
[7] Xin cho tôi được phép trích dẫn tác phẩm của tôi : L'Esprit du Père et du Fils , Paris, Médiaspaul, 1989, và bài viết của G. Rémy, Une théologie pascale de l'Esprit Saint. À propos d'un ouvrage récent , đăng trong NRT 112 (1990) 731-734
[8] Các nhà chú giải Kinh Thánh nhận định rằng 1Tx 4,14 là một trong những tín biểu cổ cựu nhất. Đó là một biểu đề đức tin có trước thời Phaolô viết các thư, cổ xưa hơn bức thư 1Tx
[9] D. Mollat, từ Gloire trong Vocabulaire de théologie biblique, Paris, Cerf, 1971, cột 505.
[10] J. Guillet, từ Esprit de Dieu , ibid. cột 399: Thần Khí là “Àvinh quang của Chúa Tể' phục sinh (2Cr 3,18). Ân huệ của Thánh Linh chính là sự hiện diện của vinh quang Chúa Tể, Đấng biến đổi chúng ta nên hình ảnh của Ngài”
[11] M.-J. Lagrange, Épitre aux Romains , coll. Études Bibliques, Paris, Gabalda, 1916, tr. 8 (một cách uyển chuyển tinh vi); J. Huby, Saint Paul. Épitre aux Romains , coll. Verbum Salutis, Paris, Beauchesne, 1940, tr. 46
[12] Thường thì khó mà xác định cho rõ được ý nghĩa của từ Thần Khí/thần trí (Esprit/esprit), và khó mà phân biệt được giữa ý nghĩa chỉ về chính Thánh Linh hay là chỉ về một thực tại tinh thần/thiêng liêng thuộc lãnh vực hoạt động của Thần Khí. “Ngôi vị Thần Khí hay là phạm vi thần linh của Thần Khí...: không phải lúc nào cũng có thể xác chỉ rõ giới mức của một ngôn từ được; hay là cũng chẳng có ích gì mà làm chuyện đó” (L. Cerfaux, Le Christ dans la théologie de saint Paul , Paris, Cerf, 1951, tr. 223).
[13] Tuy nhiên, niềm vinh quang và tình trạng giống nhau ấy không khuôn rập theo tiêu chí “xác phàm”; cả thập giá Đức Kitô nữa cũng chính là quyền năng và vinh quang (1Cr 1,24). Như thế là vì cuộc tử nạn và cuộc phục sinh là hai bề mặt của cùng một mầu nhiệm duy nhất
[14] L. Cerfaux, Le Christ ..., trưng dẫn trên kia, tr. 330: “Khái niệm về tái giáng kéo theo danh tước Con Thiên Chúa.