III. Thánh Linh Trong Quan Hệ Với Con Thiên Chúa
Do bởi liên hệ với Ngôi Cha trong tư cách là Cha và với Ngôi Con trong tư cách là Con, Thần Khí hằng mang tính chất cá biệt đặc trưng thế nào, thì trong địa vị làm Con Thiên Chúa, Đức Kitô cũng mang ấn tín của Thần Khí như vậy.
1. Thần Khí của tính chất làm Cha và của tính chất làm Con
Trong “sách ghi lại nguồn gốc của Đức Giêsu Kitô” theo thánh Mátthêu (1, 1), vai trò của các người cha trong chuỗi gia phả được diễn tả bằng động từ “sinh hạ/sinh ra”; còn vai trò của các bà mẹ thì được biểu đạt bằng kết từ (giới từ) “bởi”(ek ):
Giuđa sinh Pharê và Dara bởi Thamar...
Sanmôn sinh Booz bởi Rahab;
Booz sinh Giôbed bởi Ruth...
Đavít sinh Xalômôn bởi vợ của Uria...
Bởi Maria, Đức Giêsu đã được (Thiên Chúa) sinh ra.
Trong khi đó, vai trò của Thần Khí trong việc sinh hạ Đức Giêsu, đã được nói lên hai lần với cùng một kết từ “ bởi ” (Mt 1,18.20).
Luca 1, 35 ghi là: “Thánh Linh sẽ đến trên bà... Vì thế , trẻ sắp sinh sẽ là thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” Vai trò của Thần Khí không phải là vai trò của một người nam đối với bạn đời của mình: cũng như Mátthêu, Luca cho thấy là con trẻ đã được chính Thiên Chúa sinh hạ, và sẽ được gọi là Con Thiên Chúa, chứ không phải là Con của Thần Khí. Thần Khí và Đức Maria đóng giữ cùng một vai trò trong cùng một công trình hiệp lực tuyệt hảo: một bên là theo cách thức thiên giới, còn bên kia thì theo cách thức nhân thế. Qua cách thức ấy, một con người đã sinh ra, và người đó chính là Con của Thiên Chúa , vì lẽ Thiên Chúa đã sinh hạ con người ấy ra từ bởi Thần Khí và bởi lòng dạ của Đức Maria.
Có người sẽ bảo: cần chi phải dồn dập chất đống những khối ý nghĩa thần học nặng trĩu lên trên những đoạn trình thuật hết sức đơn giản như thế! Có thể là đúng thế. Tuy nhiên, các văn đoạn ấy chiếu phóng ra cho thấy trước, cho thấy ánh sáng sẽ bừng lên từ mầu nhiệm Vượt Qua, là một mầu nhiệm hàm súc những ý nghĩa phong phú bất tận. Biến cố Đức Giêsu sống lại, cho thấy rằng: Thiên Chúa là Cha; Đức Kitô được sinh ra trong niềm viên mãn của địa vị làm Con; và chính trong Thánh Linh, Thiên Chúa đã dùng quyền năng (2Cr 13, 4) -- tức là Thần Khí -- cùng vinh quang của mình (Rm 6, 4) -- cũng lại là Thần Khí -- mà làm cho Đức Giêsu sống lại. Thần Khí là tựa như “lòng dạ” (ai mà lại không cần dùng đến hình ảnh để diễn đạt cho rõ ràng?), trong đó, Thiên Chúa Cha đã làm cho Đức Giêsu sống lại, tức là trong đó, Ngài đã sinh hạ Con của mình ra.
Vậy, mầu nhiệm Vượt Qua là mầu nhiệm đời đời muôn thuở, nhưng đã được tháp nhập vào trong nội cục của công trình tạo dựng, được mạc khải và đồng thời đã được thực hiện ra ở giữa thế giới loài người. Tự hậu, con người được biết rằng Thiên Chúa là Cha, đã theo một cách thức vô tận, sinh ra trong quyền lực của Thánh Linh, một Người Con vô biên. Tựa như mặt gương sáng, biến cố Phục Sinh phản ánh tỏ mầu nhiệm về Thiên Chúa ra trước mắt loài người[15].
Kể từ đó, Thiên Chúa mới được nhận biết là Cha của Con Một; và các môn đồ mới bắt đầu tán dương rằng: “Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (2Cr 1, 3). Họ dành danh xưng Thiên Chúa để chỉ về Đấng mà thần học sẽ gọi là Ngôi Nhất trong Thiên Chúa Ba Ngôi (xem 1Cr 8,6)[16] là Ngôi Vị mà bản thể nhiệm mầu đặc trưng tiềm ẩn ở trong sự việc sinh hạ Ngôi Con ra. Trong tư thế là Ngôi Cha, Ngài không có sinh hoạt nào khác ngoài hành động sinh hạ Ngôi Con (các hoạt động trong công cuộc tạo dựng là thuộc lãnh vực của mối quan hệ giữa Ngôi Cha và Ngôi Con). Thực thế, trong cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu, bản chất làm Cha trong Thiên Chúa đã tự hiện thực hóa và biểu hiện ra trong Thánh Linh. Chính ở trong Thần Khí, Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô sống lại (Rm 8, 11), “đúng như lời đã viết trong thánh vịnh thứ hai: Ngươi là Con Ta; hôm nay, Ta đã sinh ra ngươi” (Cv 13, 33).
Vì mầu nhiệm Vượt Qua là cánh cửa mở ra cho thấy mầu nhiệm có từ đời đời trong Thiên Chúa, thế nên, thần học có quyền căn cứ vào đó mà kết luận rằng trong mầu nhiệm về Ngôi Cha sinh hạ, và Ngôi Con được sinh ra, Thần Khí là quyền lực sinh hạ trong Thiên Chúa. Ngài là Thần Khí của Ngôi Cha trong tư thế làm Cha, và là Thần Khí của Ngôi Con trong địa vị làm Con. Trong Ngài, được biểu đạt ra “những gì (nơi Ngôi Cha) là chính Ngôi Cha nhất[17], và đối với Ngôi Con, thì Thần Khí cũng giữ một vai trò y hệt như thế.
Quyền lực của Thiên Chúa Cha là một tình yêu vô biên. Là quyền lực ấy, nên Thần Khí chính là tình yêu (xem Rm 5, 5). Ngài là sức mạnh của khai mở (ouverture), của lưu toả (effusion) chính mình[18]. Yêu thương vô hạn, Ngôi Cha sống trong thể trạng xuất thần chính mình trong Con của mình[19]. Ngài sinh ra bằng con đường yêu thương: “Ngôi Lời phát sinh từ con tim của Thiên Chúa Cha”[20]. Do đó, thánh Âugutinô đã có thể viết rằng: “Thế là có Ba Vị: Đấng yêu thương, Đấng được yêu thương và Đấng là tình yêu”[21]. Chính trong Thần Khí tình yêu ấy, Ngôi Cha (hiện hữu theo bản chất đặc thù) là Ngôi Cha, và Ngôi Con (hiện hữu theo bản chất đặc thù) là Ngôi Con.
Tuy có tùy theo mức độ riêng của mỗi cá nhân, thì cũng vẫn giống như Đức Giêsu trong cuộc Vượt Qua của Ngài, các tín hữu kitô tựa như mặt gương sáng, phản ánh rạng ngời mầu nhiệm có từ đời đời trong Thiên Chúa. Là Con Một, nhưng Đức Kitô lại có đông đảo anh chị em (xem Rm 8, 29) mà Thiên Chúa đã ôm trọn vào trong cuộc sinh hạ duy nhất, bằng cách làm cho họ được trỗi dậy trong “quyền năng sống lại của Ngài ” (Pl 3, 10). Thiên Chúa làm cho họ được sinh ra trong cuộc sống làm con (xem 1Pr 1, 3), không phải bằng cách mãi mãi tái diễn hành động truyền sức sống lại, nhưng là bằng cách làm cho họ “cùng sống lại với” Đức Kitô (Cl 2, 12), “cùng hồi sinh với” Ngài (Ep 2, 5...), và giữ vững họ lại ở trong quyền năng của Thần Trí; chính trong cùng một Thần Trí ấy, Đức Kitô đã sống lại. Trong Thần Trí, các tín hữu kitô được “nghĩa tử hóa”: “Những ai được Thần Khí Thiên Chúa ban sinh khí cho, thì đều là con cái của Thiên Chúa” (Rm 8, 14); chính nhờ Ngài mà họ được thuộc về Đức Kitô (Rm 8, 9), để cùng với Đức Kitô, họ làm nên một thân thể trong Thần Khí duy nhất (1Cr 12,13.27). Họ sinh ra từ Thiên Chúa “bởi nước và Thần Khí” (Ga 3, 5; Tt 3, 5): nước là biểu tượng của nữ và mẫu tính, cũng như tượng trưng cho Thánh Linh[22]. Đối với các tín hữu kitô cũng như đối với Đức Kitô, Thần Khí là sức mạnh của Thiên Chúa Cha: bởi sức mạnh ấy, Ngôi Cha sinh hạ ; và có thể ví Thần Khí như là lòng dạ từ đó con cái Thiên Chúa được sinh ra. Và như thế, Giáo Hội sum họp trong Thiên Chúa Ba Ngôi, sẽ giúp cho thấy rõ hơn về mầu nhiệm cao cả này[23].
Vậy, không thể quan niệm về mầu nhiệm Ba Ngôi theo một lược đồ song cực được, tức là quan niệm rằng một đàng, Ngôi Cha sinh hạ Ngôi Con, còn đàng kia, thì nhiệm xuy nên Thần Khí. Nếu thế, thì hoặc là Thiên Chúa sẽ cùng lúc là Cha cả của Ngôi Con lẫn của Thần Khí -- bởi lẽ theo bản chất cá thể đặc trưng của mình, Ngôi Nhất là Cha, là Thiên Chúa trong cương vị đặc thù làm Cha -- : điều đó đi ngược hẳn lại với chân lý đức tin về Con Một ; hoặc là Thiên Chúa sẽ là Cha trong hành động sinh hạ Ngôi Con, và sẽ không phải là Cha trong hành động nhiệm xuy nên Thần Khí -- cho dù theo bản chất đặc trưng của mình, Ngôi Cha vẫn là Cha -- : nhưng, suy luận như vậy là tương phản, là tự lao mình vào ngõ cụt phi lý. Đà sinh động trong Thiên Chúa Ba Ngôi đi từ Ngôi Cha đến Ngôi Con, và đà sinh động ấy chính là Thần Khí. Ngôi Cha sinh hạ Ngôi Con trong Thần Khí; Thần Khí nhiệm xuất từ Ngôi Cha trong tư thế là Cha, mà vẫn không phải là Con: vì Ngài là quyền lực trong đó Ngôi Cha sinh hạ.
Suốt dòng lịch sử, Thần Trí đã luôn luôn biểu hiện như thế: như là hành động, như là quyền lực hằng hoạt động. Ngài không phải là chủ thể, và cũng chẳng phải là kết quả của hành động; không phải là chủ thể phát ngôn, và cũng chẳng phải là Lời nói ra: Ngài là hơi thở/hơi thổi (xuy phất: souffle ) mang Lời phát ra; Ngài là tiếng, là giọng qua đó, Lời biểu đạt chính mình ra. Ngôi Cha mạc khải, và Ngôi Con là hình ảnh được mạc khải ra của Ngôi Cha (2Cr 3, 18; Cl 1, 15); còn Thần Khí là hành động mạc khải (xem Ga 16, 13). Thần Trí không phải là Đấng làm cho vinh hiển, và cũng khộng phải là Đấng được vinh hiển; Ngài là niềm vinh hiển trong đó, Đức Giêsu đã được sống lại[24]. Ngài không phải là Đấng xức dầu, cũng chẳng phải là Đấng được xức dầu; nhưng là hành động xức dầu[25]. Thiên Chúa là thánh, Ngôi Con là thánh, và các tín hữu là thánh trong Đức Kitô; còn Thần Khí là hành động thánh hóa các tín hữu. Thiên Chúa “công chính hóa” Đức Kitô bằng cách làm cho Người sống lại (1Tm 3, 16), và làm cho Người sống lại “nhằm công chính hóa chúng ta” (Rm 4, 25); còn Thần Khí chính là niềm công chính đầy sức năng công chính hóa. Theo Kinh Thánh, kinh nguyện không trực tiếp ngỏ lời lên cùng Thần Khí, bởi chính Ngài là tiếng kêu lên của kinh nguyện (Rm 8, 15; Gl 4, 6), là tiếng rên rỉ khôn tả. Ngôi Cha là Đấng yêu thương, Ngôi Con là Đấng được yêu thương, và Thần Khí là tình yêu (xem Rm 5, 5). Luôn luôn Thần Khí được miêu tả bằng những từ ngữ biểu thị hành động, sức năng động. Mà sức năng động chủ yếu của Ngôi Cha là sinh hạ: Ngài sinh hạ bằng cách yêu thương, và sinh hạ ra trong tình yêu là Thần Trí[26].
Vậy, thiết tưởng cũng có thể uốn nắn lại cách thánh Augustinô diễn đạt, mà chúng tôi vừa trưng dẫn trước đây, để nói rằng: “Thế là có Ba Vị: Đấng Sinh Thành, Đấng Phát Sinh, Công Tác Sinh Hạ.” Thần Khí là sức mạnh, trong đó Ngôi Cha (hiện hữu theo bản chất đặc thù) là Ngôi Cha, và Ngôi Con (hiện hữu theo bản chất đặc thù) là Ngôi Con. Thần Khí chẳng những là “người bạn keo sơn” của Ngôi Con không thôi, mà còn là Đấng ở trong chính nội cục của mầu nhiệm về Ngôi Con nữa, giống hệt như đối với mầu nhiệm về Ngôi Cha vậy. Ngài là con tim của Ngôi Cha và của Ngôi Con[27].
Trong Thần Khí ấy, Cha là Ngôi sinh hạ, Con là Ngôi làm con: Thần Khí luôn đóng giữ vai trò ngôi vị hóa (personnali-sant).Ngay từ đầu, Ngài đã đóng giữ vai trò ấy trong công trình tạo dựng, và đã từ từ đưa nó lên đến tột đỉnh của công trình ấy, tức là ngôi vị con người, là nhân vị. Và cũng chính ở trong Ngài, nhân tính nơi Đức Giêsu đã được nâng lên đến mức thần linh do sự việc được ngôi vị hóa qua Ngôi Con.
Cách quan niệm như thế có thể làm dấy lên những nghi vấn nhiều loại. Trước hết, thứ tự (taxis) trong Ba Ngôi có vẻ như bị rối loạn đi: Thần Khí đã không được đem đặt chắn ngang ở giữa Ngôi Cha sinh hạ và Ngôi Con phát sinh đó sao? Thần Khí cũng được đem đặt ngay ở đầu, vì chủ trương cho rằng Ngôi Cha sinh hạ trong Thần Khí!
Đây là câu trả lời cho vấn nạn đó: cũng không nên coi Thần Khí là Ngôi Vị cuối cùng, làm như Ngài là Kẻ đến sau, làm như Ngài chẳng khác chi là ngõ cụt trong đà sinh động nơi Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngài không phải là Ngôi Vị “cằn cỗi”; trong khi đó, Ngôi Cha sinh ra Ngôi Con, và Ngôi Cha cùng Ngôi Con nhiệm xuy ra Thần Khí[28]. Đã đành, Thần Khí không phải là ban sơ: danh dự này thuộc về Ngôi Cha; tuy nhiên, Thần Khí cũng chẳng phải là chung cục của đà sinh động trong Thiên Chúa, vì trong đà sinh động ấy, Ngôi Cha hướng về với Ngôi Con: cả ở nơi bước đầu lẫn ở nơi điểm kết, đều có mặt Thần Khí, bởi lẽ chính ở trong Ngài, Ngôi Cha sinh hạ, và Ngôi Con được sinh ra. Không Ngôi Vị nào khác phát xuất từ Ngài, nhưng, chẳng những không son sẻ, Ngài chính là sức năng sinh sản trong Thiên Chúa. Ngôi Cha và Ngôi Con dù là một, thì cũng vẫn diện đối diện nhau trong một tư thế khác biệt vô biên (altérité infinie ): một bên là Cha vô biên, và bên kia là Con, là Đấng thu nhận chính bản thể của mình một cách vô biên; Còn Thần Khí thì không đứng ở tư thế diện đối diện với Ngôi Cha, hay là với Ngôi Con như thế: Ngài là ở chính trong nội giới của Hai Vị , là Thần Khí của bản chất làm Cha của Ngôi Cha, và là Thần Khí của bản chất làm Con của Ngôi Con.
Trong thứ tự xướng danh Ba Vị, Thần Khí thường được đặt sau hai Ngôi Cha và Con. Cũng có thể nói đến Ngôi Cha và Ngôi Con mà không nêu danh Thần Khí, như Kinh Thánh thường làm. Bởi vì, Ngài không phải là Đấng yêu thương, cũng chẳng phải là Đấng được yêu thương; không phải là Đấng Sinh Thành, cũng chẳng phải là Đấng Phát Sinh: Ngài là tình yêu, là sức năng sinh sản. Ngài cũng được miêu tả như là lòng khiêm hạ của Thiên Chúa[29], và được hiểu như là Đấng hằng sẵn sàng phục vụ Ngôi Cha và Ngôi Con. Vì vậy, trong thứ tự xướng danh, Ngài đứng ở hàng ba, ở hàng sau cùng: bản chất làm Cha của Ngôi Cha quy hướng trọn về với Ngôi Con, trong Thánh Linh.
Ngoài ra, không phải là Kinh Thánh (xem Kh 1, 4...) cũng như Thánh Truyền đã không biết tới đồ hình Cha-Thần Khí-Con[30]. Có một hình thái thần học mà tôi xin tạm gọi là thần học tranh ảnh, đọc thấy ở trong trình thuật về cuộc Đức Giêsu chịu phép rửa và trong những ảnh tượng; trong đó, Thần Khí được minh họa như là xuất phát từ Thiên Chúa Cha và lưu lại ở trên Ngôi Con. Phụng vụ, đặc biệt là phụng vụ nghi thức Hy Lạp, cho thấy là có nền tảng rất vững chắc khi ca ngợi Chúa Cha và Chúa Con trong Thần Khí. Khi chúng ta làm dấu thánh giá, động tác đi từ Ngôi Cha đến Ngôi Con, còn Thần Khí thì được biểu thị bằng đường đi ngang qua đường dọc chạy từ Ngôi Cha đến Ngôi Con. Thứ tự (taxis) không đồng nghĩa với loạt nối tiếp. Trọng yếu hơn taxis ,còn có perikhoresis (tính chất ở trong nhau/tương tại tính), theo đó, những gì có ở chung cục thì cũng có ở ban sơ và trong khắp tiến trình. Chính vì thế mà Thần Khí cùng hiện hữu từ đời đời và ngang hàng với Ngôi Cha cũng như với Ngôi Con; bởi lẽ, Ngôi Nhất có là Cha, thì cũng chỉ là Cha ở trong Thần Khí, và cũng thế, Ngôi Hai có là Con, thì cũng chỉ là Con ở trong Thần Khí.
Cũng còn có thể hỏi vặn lại như thế này: lối nhìn trên đây áp dụng khái niệm ngôi vị cho Thần Khí, theo một cách thức khác với trường hợp của Ngôi Cha và Ngôi Con. Chính thế, khái niệm ngôi vị được áp dụng cho Thần Khí theo một cách thức khác, bởi vì, mỗi một Ngôi trong Ba Vị là ngôi vị theo một cách riêng biệt, đặc thù: Ngôi Cha là ngôi vị sinh hạ; Ngôi Con là ngôi vị làm Con, có sức năng thu nhận vô cùng; Thần Khí là ngôi vị-sức năng sinh hạ, ngôi vị-tình yêu. Trong Thiên Chúa, mỗi Ngôi mang một tính chất đặc thù, vô cùng khác biệt so với hai Ngôi kia; và chính ở trong niềm khác biệt vô biên ấy, Ba Ngôi là Một. Làm sao có thể quan niệm về một mối hiệp nhất tuyệt đối được, nếu mỗi Ngôi chỉ là ngôi vị theo một cách thức giống hệt nhau?
Có lẽ có người lại vặn hỏi rằng: chính khái niệm về ngôi vị đã không được tôn trọng đối với trường hợp của Thánh Linh. Mọi ngôi vị đều mang một diện mạo: chính từ Hy Lạp prosopon cũng hàm súc ý nghĩa đó; vậy, nói rằng Thần Khí là hành động, là tình yêu, là công tác sinh hạ, tức là không để cho Thần Khí có được một diện mạo nào cả. Chính thế, trong Kinh Thánh, Thần Khí “đã không mang một diện mạo nào cả; ngay đến danh xưng, Thần Khí cũng chẳng có một danh xưng nào khả dĩ gợi lên được một diện mạo nhân dạng”[31]. Ngài không phải là Đấng phát ngôn, cũng chẳng phải là Lời, nhưng là “Hơi thở/Xuy phất,” là điều không nói ra, là những gì khôn tả: là những gì làm nên mầu nhiệm trong Thiên Chúa; nhưng đồng thời cũng chính Ngài là Đấng mà qua đó, Thiên Chúa tự mạc khải mình ra. Ngôi Cha là diện mạo mà phản ánh là chính Ngôi Con (Dt 1, 3), nhưng những đặc nét của hai Ngôi Cha và Con lại được hiện rõ lên ở trong Thần Khí.
Người ta cũng sẽ hỏi rằng: một ngôi vị thì luôn ở vị thế đối diện với một tha vị, trong quan hệ với một đối cực. Vậy, nếu chủ trương theo cách thức trên đây, thì Thần Khí không thể là một ngôi vị thuộc nội giới của mầu nhiệm Ngôi Cha và Ngôi Con được. Nhưng, dù Kinh Thánh không bao giờ đặt Thần Khí ở trong vị thế đối diện với Ngôi Cha và Ngôi Con, và cũng chẳng bao giờ vén mở cho thấy Ngài như là chính nội giới của hai Ngôi ấy, thì thử hỏi thần học chẳng có bổn phận phải nhận rằng tuy ở trong nội giới của hai Ngôi kia, Thần Khí vẫn có thể là một ngôi vị thứ ba: ngôi vị liên kết hai Ngôi Vị ấy ngay tại trong những gì làm cho hai Ngôi này ở vào hai đối cực khác nhau, hay sao? Không gì bí nhiệm cho bằng Thần Khí của Thiên Chúa!
Tóm lại: nếu đúng Thần Khí chính là hiện thân của quyền lực trong đó, Ngôi Cha sinh hạ, và của tình yêu qua đó, Thiên Chúa xuất phát ra khỏi chính mình trong Con của mình, thì ắt từ đó phải suy ra rằng Thần Khí có một mối quan hệ toàn diện với Ngôi Cha trong bản chất đặc thù làm Cha, và với Ngôi Con trong bản chất đặc thù làm Con[32].
---Còn tiếp---
-------------------------------------------------------------------------------------------------
[15] ”Nhiệm cuc,” lịch sử cứu độ đã thực sự mở lối dẫn con người tới chỗ nhận biết mầu nhiệm sâu kín trong Thiên Chúa. Ai không đồng ý về điểm đó, hoặc chủ trương ngược lại, tất có bổn phận phải chứng minh làm sao để cho thấy là người kitô có thể đạt tới chỗ tin nhận mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, bằng một con đường khác với lối ngõ vừa nói. Chúng ta nhận biết Thiên Chúa là Thiên Chúa Ba Ngôi, và nếu chúng ta được biết như vậy, thì chính là nhờ Đức Kitô Phục Sinh, Đấng làm trung gian cho đức tin chúng ta (xem G. Rémy, Une théologie pascale ..., trưng dẫn trên kia, tr. 735).
[16] Trừ một vài trường hợp: tức là những khi họ gọi Đức Kitô bằng danh xưng Thiên Chúa; tuy nhiên, các trường hợp này không làm cho luật chung nói trên mất bớt giá trị đi; sở dĩ Đức Giêsu được gọi bằng danh xưng ấy, là vì Ngài cùng thông phần vào một thiên tính duy nhất của Thiên Chúa-Cha Ngài; xem K. Rahner, Dieu dans le Nouveau Testament, Écrits théologiques , cuốn 1, Paris, DDB, 1959, tt. 11-111. Cũng xin xem F.X. Durrwell, Le Père, Dieu en son mystère , Paris, Cerf, 1987, tt. 13-18.:
[17] Ở đây, tôi xin lấy lại một câu của J. Guillet viết trong bài giải thích về từ Esprit de Dieu , ở cột 388 của cuốnVocabulaire de théologie biblique , trích dẫn trước đây; tác giả đã thử đưa ra một cách hiểu về ý nghĩa tổng quát của từesprit như sau: “Luôn luôn, từ < khí nhằm tới ý nghĩa chỉ về yếu tố cốt tủy và không thể nắm chắc được ở trong một hữu thể... chỉ về những gì là chính hữu thể đó nhất.” Phụ chú của người dịch: chúng tôi cố tránh những cách nói như là: những gì làm nên...cấu thành ... và chỉ dùng từ là , xét vì ở đây đang nói về Thiên Chúa, là Đấng Ta có , là Đấng tự hữu/hằng hữu (Xh 3,14), là Đấng Ta chính là Ta, Ta là Đấng có (Đnl 32,39), là Đấng Chính là Ta (Ga 8,24). Tác giả bài viết cũng dùng động từ est.
[18] H. Schlier, Der Roemerbrief , Freiburg, Herder, 1977, tr. 268: tác giả giải thích về Thánh Linh như thế này: “Die Kraft der Selbsterschliessung Gottes”, quyền lực khai mở của Thiên Chúa.
[19] Th. Tôma, Tổng Luận Thần Học , cuốn II, tập I, câu hỏi 28, đoạn 3 sed contra ; thánh nhân đã lấy lại tư tưởng của Điônixiô Mạo Danh, và viết: “Bởi yêu thương, nên Ngài xuất thần.”
[20] Th. Ambrôxiô, De Fide , IV, 10, 132, CSEL 78, tr. 204.
[21] Th. Âugutinô, De Trinitate , 8, 14, CCSL 50, tr. 2
[22] Cựu Ước cũng đã dùng nước để tượng trưng cho Thần Khí: Is 32,15; 44,3; Ed 36,25-27; Ge 3,1...; Dcr 12,10
[23] Xem Th. Xyprianô, De Orat. Dom ., 23, CCSL tập IIIa, tr. 10
[24] Th. Atanaxiô, Thư thứ nhất gửi cho Xêrapiôn , 19 , SC 15, tr. 116...: “Ngôi Cha là ánh sáng, Ngôi Con là ánh chói... Thần Khí là hành động qua đó chúng ta được soi sáng” (được Y. Congar trích dẫn ở trong cuốn Je crois en l'Esprit Saint , tập III, Paris, Cerf, 1980, tr. 52). Ximêôn (với biệt danh) Nhà Thần Học Mới, Catéch ., 33. SC 113, tr. 257: “Cửa ra vào: là Ngôi Con...chìa khóa của cửa ấy: là Thần Khí”.
[25] Th. Irênê, Adv. haer ., III, 18, 3 SC 211, tr. 350: “Chính Ngôi Cha là Đấng xức dầu; chính Ngôi Con là Đấng được xức dầu trong Thần Khí, là chính hành động xức dầu... Như Ngôi Lời đã nói lên điều ấy qua miệng của tiên tri Isaia là: ÀThần Khí Thiên Chúa ở trên tôi, bởi Người đã xức dầu cho tôi'; vì nói thế có nghĩa là cùng một lúc muốn chỉ về Ngôi Cha là Đấng xức dầu, và Ngôi Con là Đấng được xức dầu, và Thần Khí là hành động xức dầu”.
[26] Dù có hướng theo một viễn ảnh hơi khác, thì những hàng viết sau đây cũng nói lên cùng một ý nghĩa như thế: “Tình yêu dịu hiền ấy -lòng dạ Thiên Chúa Cha - trong đó, Ngài đặt Ngôi Con của mình nằm, chính là Thần Khí... Chỉ có một Cha sinh ra Con mình trong tình yêu, rồi lấy tình yêu mà vấn bọc Con mình, và làm cho Con mình lưu ngụ ở trong chính mình” (M.-J. Le Guillou, Le mystère du Père , Paris, 1973, tr. 267). Tác giả cũng đã nói đến “vai trò làm mẹ của Thần Khí”.
[27] L. Bouyer, Le Consolateur , Paris, Cerf, 1980, tr. 439: “Chính vì thế, Thần Khí là, như danh xưng cho thấy, hơi thở/hơi thổi của sự sống trong Thiên Chúa, hoặc, - nếu muốn và cũng không có gì là khác cả, - là như con tim của thiên tính: con tim của Ngôi Cha cũng như của Ngôi Con.”
[28] Về “nỗi son sẻ hiếm hoi - chí thánh, thần linh ấy - của Thánh Linh”, thử hỏi còn có gì mà người ta đã không nói? Xem P. De Bérulle, Grandeurs de Jésus, IV, 2; M. Dupuy, l'Esprit Saint et Marie dans l'École francaise , trong Études mariales26(1969) 2
[29] Theo tôi biết, thì người đầu tiên nói tới lòng khiêm hạ của Thần Khí là Th. Preiss, Le témoignage intérieur du Saint-Esprit, bài đăng trong Cahiers de l'actualité protestante 13(1946) 26.
[30] B. Bobrinskoy, Le Mystère de la Trinité , Paris, Cerf, 1925, tr. 78; tác giả viết rằng: “Giáo Hội luôn giữ thái độ ngập ngừng do dự , đặc biệt là trong kinh nghiệm sống của mình và trong khoa bí tích học, không biết phải chọn đồ hình nào trong hai đồ hình về Thiên Chúa Ba Ngôi, tức là đồ hình Cha-Con-Thần Khí, và đồ hình Cha-Thần Khí-Con” (chính tác giả đã cố ý nhấn mạnh đến những điều ghi bằng chữ xiên).
[31] J. Guillet, từ Esprit de Dieu , trong tác phẩm trưng dẫn trên kia, tr. 390
[32] Quan niệm này xem ra đang ngày càng được giá trong giới các thần học gia. Đây là một vài dẫn chứng: J.-M. Garrigues, La théologie du Saint Esprit dans le dialogue oecuménique; Document Foi et constitution, số 103, Paris, Centurion et Presses de Taizé, 1981, tr. 168: “Ý nghĩa duy nhất thực sự có tính cách tín lý, mà từ ngữ Filioque có thể muốn nói lên trong lời tuyên xưng đức tin của Giáo Hội dựa trên cơ sở của Kinh Thánh cũng như của đoàn ngũ các Giáo Phụ, là Thánh Linh xuất phát... từ Ngôi Cha trong tư thế là Cha, nghĩa là trong tư thế là Đấng sinh hạ Ngôi Con duy nhất “(chính tác giả đã cố ý nhấn mạnh đến những gì ghi bằng chữ xiên); B. Bobrinskoy, ibid, tr. 158: “Ngôi Con (là)... Đấng trong Ngài, Ngôi Cha và Thần Khí nghỉ ngơi”; trong cuốn Le Mystère de la Trinité , tác giả còn nói rõ hơn rằng: “Vậy, Ngôi Con sẽ là lý do hiện hữu của việc nhiệm xuy Thần Khí, là Thần Khí của Ngôi Cha và cùng lúc, cũng là Thần Khí của Ngôi Con” (tr. 298). “Dù chỉ là thuộc lãnh vực quan niệm hoặc là khái niệm, thì mọi hình thức du nhập tính chất có trước (antériorité)của sự việc Ngôi Con sinh ra vào trong quan hệ so sánh với sự việc Thần Khí nhiệm xuất, cũng đều đưa tới tình trạng biến mầu nhiệm Thiên Chúa Ban Ngôi trở thành một đối tượng nằm trong tầm khả năng nhận thức của lý trí con người...” (tr. 305).