2. Thần Khí và thiên tính của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa
”Thần Khí sẽ ngự xuống trên bà... Chính vì thế mà con trẻ sinh ra bởi bà sẽ là thánh, được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1, 35). Thiên Chúa là Thánh (1Sm 2, 2); Is 6, 3; 57, 15; Tv 99,3.5). Đức Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1, 24; Cv 3, 14; Kh 3, 7): “Chúng tôi đã tin và nhận biết chính Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6, 69). Có lẽ danh tước ấy là biểu thức cố cựu nhất nói lên niềm tin vào thiên tính của Đức Giêsu; nó có liên hệ về ý nghĩa với danh tước Con Thiên Chúa[33]. Theo Luca 1 ,35, cả hai danh tước ấy đều là danh tước riêng của Đức Giêsu, vì lẽ Thánh Linh đã ngự xuống trên Đức Maria. Đức Kitô là thánh bởi đã được Thần Khí xức dầu: “Người Tôi Tớ thánh mà Ngài đã xức dầu” (Cv 4, 27), mà Ngài đã “xức dầu bằng Thánh Linh” (Cv 10, 38).
Để nói về thiên tính của Đức Giêsu, thần học thường dùng khái niệm bản tính Thiên Chúa , được coi như là một thứ khí cụ không thể thiếu được. Kinh Thánh cũng cho phép và hợp thức hóa lối dùng từ như thế, dù không đích thân dùng tới từ ngữ ấy trong văn bản của mình[34]. Nhưng Kinh Thánh thừa nhận những gì thần học nói về bản tính Thiên Chúa, và thừa nhận với một danh nghĩa đặc biệt: với danh nghĩa của Thánh Linh, là sự thánh thiện của chính Thiên Chúa.
Thiên Chúa thánh thiện ngự trên cõi trời cao: “Đây là lời của Đấng cao vời thăm thẳm, Đấng ngự trị muôn đời, Danh Người là thánh: ÀTa ngự cao vời chí thánh'“ (Is 57, 15). Thần Khí là thể cách biểu đạt của tính chất siêu việt ấy. Để biểu hiện chính mình ra, Ngài đã ngự xuống: Ngài đã đến trên các anh hùng dân tộc Ítraen (Tl 3, 10; 11, 29; 14,6.9...), trên Sa-un (1Sm 10, 6), trên Đavít (1Sm 16, 13), và từ đó về sau sẽ lưu lại trên vị vua này (Is 11,2 ). Ngài “ngự xuống trên” Đức Maria (Lc 1, 35), trên Đức Giêsu (Mc 1, 10, và các câu song song). Đức Giêsu cần phải đi lên (cùng Cha) ngõ hầu ban Thánh Linh xuống (Ga 16, 7; 15, 26). Thần Khí được gửi từ trên cao xuống (Lc 24, 49; 1Pr 1, 12) và đã ngự xuống trên các Tông đồ (Cv 1, 8) “như thể tiếng gió cuồng phong từ trời thổi đến” (Cv 2, 2). Sinh ra từ Thần Khí là sinh ra từ trên cao, và là trở thành phần tử của Nước Trời (Ga 3, 5) theo cách thể của Đức Giêsu là Đấng thuộc thượng giới (Ga 8, 23). Thánh Linh và tất cả những gì là “tinh thần” đều thuộc thiên giới.
Là thượng giới, Thần Khí ở thế đối lập với “xác phàm.” Không hẳn là không có lý do -- tuy làm thế là không đúng -- để thỉnh thoảng người ta đồng nhất hóa nhị thức tinh thần và xác phàm với hai bản tính trong Đức Kitô, tức là thiên tính và nhân tính ; như là khi giải thích đoạn Rm 1,3-4 chẳng hạn[35]. Xác phàm chỉ về hữu thể thụ tạo xét theo tư thế tách rời ra khỏi mối quan hệ đối với Thiên Chúa, và theo cương vị khép kín ở trong vòng tự trị của riêng mình, ngụp lặn trong yếu đuối và trong cả tội lỗi nữa. Đối lại với thân phận phù du mong manh ấy, Thần Khí (và tất cả những gì là “tinh thần”) biểu dương rõ quyền lực và sự thánh thiện của mình. Ngài là thực tại thiên giới: chân chính có một không hai, và duy nhất sung mãn ý nghĩa. “Xác phàm thì chẳng ích gì,” còn “những lời” của Đức Giêsu, tức là các thực tại mà Ngài nói đến, “là thần khí và là sự sống” (Ga 6, 63). Các việc phụng tự trần thế, nông cạn, sẽ nhường chỗ cho việc phụng thờ “trong thần khí và sự thật,” bởi vì “Thiên Chúa là thần khí” (Ga 4, 24), là bản thể siêu việt thần linh.
Thể đối ngẫu thánh Phaolô dùng để so sánh giữa văn tự và thần khí là một thí dụ minh họa cụ thể về thực trạng đối chọi giữa xác phàm và Thần Khí (tinh thần). Người đọc Kinh Thánh với cặp mắt mờ đục nhìn qua màn che, sẽ dừng lại ở nơi văn tự, ở nơi những thực tại nông cạn mặt ngoài, chóng tàn. Nhưng khi đã biết quay về với Chúa (Kitô), thì màn che rơi xuống, người đọc sẽ nhận ra được thần khí, chiều sâu vững chãi của lịch sử thánh, “vì Chúa (Kitô) là thần khí”[36]. Tiếp theo đó, tông đồ Phaolô đã lập luận dây chuyền, bắt đầu từ Đức Kitô là thần khí, để đi tới cho đến Thánh Linh: chiếc màn đã được vén lên, tầm nhìn được tự do phóng rộng, vì “Thần Khí Chúa (Kitô) ở đâu, thì tự do có ở đó” (2Cr 3,14-17). Do vậy, các từ ngữ như: thần khí, thực tại vững chãi của lịch sử, (tức là Đức Kitô) làm cho nghĩ ngay đến Thánh Linh. Đức Kitô chính là thực tại sâu thẳm ấy, bởi vì Ngài là “con người thuộc thiên giới,” “thần khí tác sinh” (1Cr 15,45-47); trong Ngài, có hiện diện niềm vinh quang rạng ngời của Thiên Chúa (2Cr 3, 18; 4,4-6), tức là Thánh Linh.
Theo Thư gửi tín hữu Côlôxê (1, 19; 2, 9), Thiên Chúa làm cho “niềm viên mãn lưu ngụ trọn vẹn (ở trong Đức Kitô) ”, “niềm viên mãn trọn vẹn của thiên tính.” Có thể coi đó là cách chỉ về “bản tính Thiên Chúa”; tuy nhiên, như bản dịch đại kết TOB chú cước, niềm sung mãn (plérôma ) là một khái niệm có liên hệ rất gần với khái niệm Pneuma (Thần Khí)[37].
Đối với Đức Giêsu, “con người theo xác phàm trước kia, và nay toàn diện là Thiên Chúa”[38], cuộc sống lại là một cuộc “thiên chúa hóa” toàn diện. Từ nay, các tín hữu nhìn nhận Ngài là “Chúa và là Thiên Chúa” của mình (xem Ga 20, 28). Chính ở trong Thần Khí, Đức Đức Giêsu đã được biến đổi -- “Ngài đã trở thành thần khí tác sinh” (1Cr 15, 45); và cũng chính Thần Khí đã mạc khải Ngài ra trong thiên tính của Ngài. Thần Khí là cách thể biểu đạt bản chất siêu việt của Thiên Chúa[39].
Thần học kể ra nhiều đặc tính của “bản tính Thiên Chúa,” và coi chúng là chung của cả ba Ngôi. Kinh Thánh cho thấy là các đặc tính cố hữu ấy của Ngôi Cha và của Ngôi Con, thì cũng đều thuộc về Thần Khí theo một danh nghĩa đặc biệt, đó là: chúng làm như được ngôi vị hóa (hóa thành ngôi vị) ở trong Ngài[40].
Thiên Chúa là thánh , ba lần thánh; Thần Khí Thiên Chúa là Thánh Linh; trong Ngài, sự thánh thiện của mầu nhiệm Thiên Chúa chí thánh được biểu đạt ra. Ngài được gọi “là sự thánh thiện đã hóa thành ngôi vị”[41].
Thiên Chúa là Đấng Quyền năng ; đó là Tên của Ngài: “Đấng quyền năng đã làm cho tôi những điều cao cả lạ lùng” (Lc 1, 49); “Các ngươi sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Quyền năng” (Mt 26, 64). Không bao giờ Thần Khí được gọi là Đấng Quyền năng, nhưng Ngài chính là quyền năng hiện thân của Thiên Chúa Quyền năng, là hoạt động thần tính qua đó Thiên Chúa thực hiện mọi công trình của mình.
Thiên Chúa là Đấng Hằng sống . Ngài nói: “Ta hằng sống” (Tl 8, 19; 1Sm 17,26.36; 1V 17, 1; 2V 19, 16; Ed đây đó). Thần Khí là sự sống của Thiên Chúa hằng sống; Ngài được gọi là “Thần Khí sự sống” (Rm 8, 2). Đức Kitô đã được tác sinh bởi Thần Khí (1Pr 3, 18), bởi quyền lực (2Cr 13, 4) và vinh quang (Rm 6, 4) của Thần Khí. Nhờ bởi Thần Khí, Đức Kitô Phục Sinh cũng đã trở thành “thần khí tác sinh” (Cr 15, 45). Các tín hữu sống và tiến bước trong Thần Khí (Gl 5, 25).
Thiên Chúa là Đấng Vĩnh hằng (Vạn đại: St 21, 33; Đn 6, 26; Rm 6, 4), và chính “nhờ Thần Khí vĩnh hằng,” mà Đức Kitô đã tự hiến thân mình dâng lên Thiên Chúa Cha” (Dt 9, 14).
Thiên Chúa là Tình yêu (1Ga 4,8.16), Thần Khí cũng thế: “Tình yêu Thiên Chúa đã được tuôn đổ xuống tâm lòng chúng ta bởi Thần Khí từng được trao ban cho chúng ta” (Rm 5, 5). Theo một cách nói luôn luôn được Kinh Thánh dùng tới, thì chính Thần Khí là Đấng đã được “đổ xuống” (Ge 3,1-2; Is 32, 15; 44, 3; Dcr 12, 10; Cv 2, 18; 10, 45; Tt 3, 6); nhờ có tình yêu ấy hiện diện trong tâm lòng, “lòng cậy trông sẽ không trở thành tủi hổ” (Rm 5, 5) cho chúng ta; và ấn tín Thần Khí ghi sâu trong tâm lòng chúng ta chính là bảo chứng của ơn cứu độ (Ep 1,13-14; 4, 30). Còn nhiều đoạn khác trong Kinh Thánh, tuy không nói rõ hẳn, nhưng cũng đều gợi ý cho thấy tình yêu là một đặc tính cá thể của Thần Khí: các cách nói: “trong Thần Khí” và “trong tình yêu/lòng mến” có thể được dùng đổi lẫn nhau[42]; các tín hữu Côlôxê đã được ban khen vì họ có “lòng mến trong Thần Khí” (1, 8); lòng mến ấy là hoa trái của Thần Khí (Gl 5, 22); Thần Khí là quyền lực của thông hiệp (2Cr 13, 13) liên kết Giáo Hội lại với Đức Kitô (Rm 8, 9), để cùng với Ngài làm nên một thân thể duy nhất (1Cr 12,13.27); mà trong ngôn ngữ nhân loại, sức mạnh ấy được gọi là tình yêu. Thần Khí thì chống lại xác phàm, hệt như tình yêu đối ngược lại với hận thù (Gl 3,17-23). Đức Giêsu, chết cho xác phàm yếu đuối (xem Rm 8, 3), đã trở thành “thần khí tác sinh” (1Cr 15, 45), thành con người được thần thiêng hóa, sống trong tình trạng tự hiến trọn vẹn: Thần Khí là tình yêu; Ngài ban cho Đức Kitô được trở thành tình yêu[43].
Cuối cùng, Thiên Chúa là Một , là Duy nhất . Việc phân biệt giữa các Ngôi Vị và bản tính Thiên Chúa cho phép kết luận rằng Ngôi Cha và Ngôi Con và Thần Khí là một do bởi bản chất duy nhất của bản tính Ba Vị. Tuy nhiên, vì tính chất tam thể giữa các Ngôi vị là thực tại huyền bí sâu thẳm trong mầu nhiệm Thiên Chúa, cho nên bản chất duy nhất của thiên tính cũng phải có nền tảng ngay ở trong các Ngôi Vị. Không dùng đến từ ngữ “bản tính Thiên Chúa/thiên tính,” Kinh Thánh chỉ nói đến “mối thông hiệp của Thánh Linh” (2Cr 13, 13); phụng vụ thì chúc tụng Ngôi Cha và Ngôi Con “trong niềm hiệp nhất với Thánh Linh”[44]; các Giáo phụ và các thần học gia ca ngợi Thần Khí với tước hiệu là “mối giây hiệp nhất.” Trong Đấng là Thần Khí chung của mình, Ngôi Cha và Ngôi Con liên kết với nhau trong mối hiệp nhất đặc thù của một ngôi vị duy nhất: mối hiệp nhất của Thần Khí, là “một Ngôi Vị ở trong hai Ngôi Vị kia”[45]. Mối kết liên nên một này là mối hiệp nhất tuyệt đối, vì lẽ, ngôi vị thì bất khả phân liệt.
Các đặc tính ấy thuộc về Ngôi Cha cũng như Ngôi Con[46]; tuy nhiên, chúng được quy ủy cả cho Thần Khí theo một danh nghĩa đặc biệt, và chúng nói lên bản chất đặc trưng của Ngôi Vị Ngài. Đồng nhất hóa Thần Khí với thực thể mà người ta gọi là bản tính Thiên Chúa là một việc làm phản lý, bởi vì theo định nghĩa, thiên tính thì phi ngôi vị (impersonnel). Nhưng, việc các dữ liệu trên đây đồng quy về một mối, cũng gợi ý cho hiểu rằng trong Thần Khí, những gì được ngôi vị hóa cũng là những gì mà thần học quy về cho bản tính Thiên Chúa. Vì vậy, không lạ gì thánh Âugutinô đã tỏ ra có nhiều thiện cảm đối với một ý tưởng do các tư tưởng gia thời ngài đưa ra như thế này: “Một vài người đã có can đảm nghĩ rằng mối hiệp thông giữa Ngôi Cha và Ngôi Con, mà các tác giả Hy Lạp gọi là Theotês , là chính Thần Khí...: Vậy, họ chủ trương rằng thiên tính ấy -- thiên tính mà họ cũng muốn hiểu đối với tình yêu và tình mến hỗ tương giữa hai Ngôi Cha và Con -- được gọi là Thần Khí”[47].
Có một lãnh vực (lãnh vực cuộc sống các tín hữu) trong đó, các Giáo phụ và thần học gia nhất trí với nhau để nhận rằng được ban cho ân huệ lãnh nhận Thần Khí là được thông dự vào thực thể họ gọi là bản tính Thiên Chúa: “Làm thế nào để tạo vật của Thiên Chúa được thông dự vào chính bản tính của Thiên Chúa? Bằng cách lãnh nhận Thánh Linh.” “Họ thông dự vào bản tính (Thiên Chúa của Đức Kitô) vì đã nhận lãnh Thần Khí.” “Ngôi Lời...dẫn nhập vào trong các thánh một hình thái quan hệ thân tộc đối với bản tính của Người bằng cách ban Thần Khí cho họ”[48]. Lời khẳng định ấy đã được nói lên trong câu Ga 3, 6, theo một cách diễn đạt có hơi khác: “Những gì sinh bởi xác phàm là xác phàm, và những gì sinh bởi Thần Khí là thần khí,” tức là mang bản chất thiên giới, và thông dự vào bản tính Thiên Chúa; đó là điều phù hợp với lời thánh Phaolô phát biểu nói rằng: “Anh em không sống trong xác phàm, mà là trong Thần Khí, nếu thực có Thần Khí Thiên Chúa cư ngụ trong anh em” (Rm 8, 9).
Trong những thế kỷ đầu, từng có một truyền thống dựa trên cơ sở các chứng cứ vững chắc, đã song song đối chiếu Thần Khí với thiên tính của Đức Giêsu: “Thần Khí thường được quan niệm như là thực thể vô hình, tiền hiện hữu, và một cách nào đó như là phương diện thần linh trong Đức Kitô”[49]. Có một thời, người ta cũng đã nói rằng: “Đối với Inhã (Ăntiôkia) cũng như đối với các tác giả trong những thế kỷ đầu, pneuma (thần khí) trong Đức Kitô chỉ về bản tính Thiên Chúa của Ngài”[50]. Thánh Irênê viết rằng: “Ngài (Ngôi Con) đã hiện ra giữa dương thế và đã sống giữa loài người, bằng cách hòa nhập và nhào trộn Thần Khí Thiên Chúa Cha với xác thể do Thiên Chúa nắn nên...”[51]. ũng còn nhiều chứng từ tương tự đọc thấy ở trong các bài giảng về Phục sinh; thí dụ: “Nhờ máu đã đổ ra, chúng ta được nhận Thánh Linh: bởi vì, máu và Thần Khí đã được kết hợp với nhau ngõ hầu, nhờ máu của bản tính chúng ta, chúng ta có thể nhận được Thần Khí là Đấng trước đó, hằng xa lạ đối với chúng ta”[52]. Thánh Atanaxiô hẳn đã lấy lại lối dùng ngôn ngữ như thế, khi viết: “Vì thế, Ngôi Lời và Con của Thiên Chúa Cha kết hợp với xác thể, đã trở thành xác thể, con người toàn vẹn, để nhờ đó, những ai kết hợp với Thần Khí thì cũng được trở thành thần khí. Thiên Chúa đã hóa thành kẻ mang xác phàm (sarcophoros) để con người có thể trở thành người mang thần khí (pneumatophoros )”[53].
Truyền thống ấy có thể được coi là đã đặt cơ sở trên tính cách biểu trưng của máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Đức Giêsu trên thập giá. Đối với phúc âm gia, biến cố ấy có một tầm hưởng trọng yếu đến độ ngài đã cảm thấy cần phải nói lên một lời long trọng đoan thệ nhằm xác minh về tính chất trung thực của nó: “Người ấy (Đức Kitô) biết là người viết nói thật để cả anh em nữa cũng tin như thế” (Ga 19, 34...), ngõ hầu anh em có được đức tin. Thật thế, Phúc ân theo thánh Gioan đã được viết ra “ngõ hầu anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa” (Ga 20, 31).
Đức Giêsu là Ngôi Lời đã hóa thành xác phàm (Ga 1, 14); máu xác minh cho bản chất thực sự nhân loại của con người Đức Giêsu. Nhưng Ngài cũng là một hữu thể thiên giới: “Ta thuộc thiên giới” (Ga 8, 23), nước xác minh cho điều ấy, vì nước là biểu tượng của thế giới trên cao; bởi phép rửa, con người được sinh ra từ trên cao (Ga 3, 5); nước mà Đức Giêsu trao ban, sẽ trào phún đến sự sống đời đời thuộc thiên giới (Ga 4, 14). Tuy nhiên, trong Kinh Thánh, nước cũng là biểu trưng của Thần Khí Thiên Chúa: được sinh ra từ trên cao là được cùng một trật sinh ra từ Thần Khí, và nước tượng trưng cho Thần Khí (Ga 3, 6; Tt 3, 5). Đoạn Ga 7,37-39 cho thấy rằng nước hằng sống, nước sẽ phún trào từ cung lòng Đức Kitô, đã được hiểu là chính Thần Khí mà các tín hữu sẽ lãnh nhận được, một khi Đức Giêsu đã được tôn vinh. Và đây, Đức Giêsu đã được cất lên khỏi đất, treo trên thập giá; đó là lúc, theo biểu trưng, Ngài được tôn vinh trước tôn nhan Thiên Chúa: nước chảy ra từ cạnh sườn, chỉ về Thần Khí sắp được ban ra, cũng như chỉ về phương diện thiên giới của mầu nhiệm Đức Giêsu, “ngõ hầu anh em tin.” Câu kết của đoạn trình thuật tương ứng rất chỉnh với lời khẳng định ban đầu: “Chính Ngài là Đấng thanh tẩy trong Thánh Linh ; còn tôi, tôi đã xem thấy và xin đoan chứng rằng: chính Ngài là Con Thiên Chúa ” (Ga 1, 34).
Trong khi Phúc âm thứ tư đặc biệt nhấn mạnh đến thiên tính của Đức Giêsu, thì Thư thứ nhất của cùng một tác giả Gioan lại lưu tâm thật nhiều tới bản chất đích thực nhân loại của Ngài (xem 1Ga 4, 2): “Chính Ngài là Đấng đã đến bởi nước và máu: Đức Giêsu Kitô; không chỉ với nước mà thôi, nhưng là với nước và máu” (1Ga 5, 6). Nước và máu nói lên tính chất đặc thù của sự việc Đức Giêsu đến trong thế gian, và như thế cũng nói lên bản tính của con người Ngài. Ngài không chỉ đến như một Đấng xuống từ thiên giới mà thôi, nhưng còn đến ở trong thân xác của một con người nữa. “Thần Khí chứng giám về điều ấy, vì Thần Khí là sự thật” (1Ga 5, 6). Ngài làm chứng ở giữa lòng Giáo Hội (Ga 15, 26) và giúp cho mọi người nhận ra rằng đó chính là sự thật. Nhưng, theo Luật Môsê, cần phải có lời khai ăn khớp nhau của hai hoặc ba nhân chứng thì mới đủ. Vì vậy, tác giả Gioan đã xuất trình thêm hai nhân chứng khác: “Vì có ba nhân chứng (về sự việc Đức Giêsu đến bởi nước và máu): Thần Khí, nước và máu, và cả ba đều nhất trí với nhau trong cùng một lời chứng” (1Ga 5, 8). Và lần này, nước và máu không còn phải đơn thuần là những ẩn dụ nữa -- những ẩn dụ gợi lên sự việc đến từ hai phía đất và trời -- vì chỉ các thực tại mới có uy tín để làm chứng: máu và nước đã lên tiếng khi tuôn trào ra từ cạnh sườn của Đức Kitô, “ngõ hầu anh em tin” vào Đức Kitô, là Đấng đã từng đến bởi nước và máu.
Vậy, nước chảy ra từ cạnh sườn Đức Giêsu chỉ về Thần Khí, là Đấng mà Ga 7,37-39 nói là sẽ phun trào ra như nước, từ lòng Đức Kitô; nhưng nước ấy cũng vén mở cho thấy phương diện thiên giới của mầu nhiệm Đức Kitô. Thánh Linh và tính chất siêu việt của Đức Giêsu đã được biểu đạt bởi cùng một biểu tượng![54]
Tuy nhiên, cũng đừng nên lẫn lộn. Một khi đã xác định về sự việc Đức Giêsu đến bởi nước và máu, như là Đấng vừa thuộc thiên giới vừa thuộc địa giới, thì ngay sau đó, bức thư của Gioan cũng đã viện dẫn chứng từ của Thánh Linh (1Ga 5,6-8). Như vậy, Thánh Linh là khác với Đức Kitô xét theo phương diện tính chất thiên giới. Thánh Phaolô cũng làm hệt như thế: sau khi đã công bố “Chúa (Kitô) là thần khí,” thánh nhân nhận định tiếp ngay là: “Ở đâu có Thần Khí của Chúa (Kitô), thì ở đó có tự do” (2Cr 3, 17). Ngôi Con xét về mặt thiên tính, và Thần Khí thì không rời khỏi nhau được (bất khả phân ly), nhưng vẫn là hoàn toàn khác biệt nhau.
Ngày nay, không còn có vấn đề trở lại đằng sau với lối dùng ngôn ngữ thần học thời sơ khai, không thể bỏ qua một bên được những giải thích chính xác và rõ ràng về việc dành từ Pneuma để chỉ riêng về Ngôi Vị Thần Khí. Tuy nhiên, cũng nên lưu ý tới sự kiện này là từ ấy đã từng được dùng để chỉ về Thần Khí, cũng như về tính chất thần linh của mầu nhiệm Đức Giêsu. Nếu từ ấy đã được dùng như thế, thì chính là vì giữa hai Vị, hằng có một mối tương quan mật thiết kết chặt.
Vậy, Kitô học có bổn phận phải chú trọng đến mối quan hệ kia đối với Thánh Linh, cần phải coi đó là một nhân tố cốt tủy trong mầu nhiệm Đức Giêsu. Chỉ cần lưu ý đến sự kiện này không thôi, thì cũng đủ thấy việc lưu tâm kia là điều tất yếu, đó là: mầu nhiệm Đức Giêsu mang bản chất Thiên Chúa Ba Ngôi, nghĩa là liên hệ đến cả Ngôi Cha lẫn Thần Khí. Đức Giêsu sống trong một mối tương nhập tương tác lẫn (osmose /thấm nhập vào nhau và có ảnh hưởng đối với nhau) với Thần Khí, cũng như Ngài sống làm một với Thiên Chúa Cha. Ngài là Con trong Thần Khí, và cũng trong Thần Khí, Ngài là Thiên Chúa, vì Thần Khí là sức năng sinh hạ trong Thiên Chúa, và tất cả những gì lý trí con người có thể hiểu biết về bản tính Thiên Chúa thì đều được ngôi vị hóa trong Thần Khí, thì đều là chính Ngôi Vị Thần Khí. Được sinh hạ trong cung lòng Thần Khí ấy, Ngôi Con được Ngôi Cha đem tất cả sự phong phú vô biên của thiên tính mà bảo dưỡng cũng tại trong cung lòng ấy. Có ở trong cung lòng ấy, Đức Giêsu mới là Ngôi Con, mới là Thiên Chúa.
Đối với Đức Kitô, mối quan hệ với Thần Khí cốt tủy đến độ có thể gọi Thần Khí là “Thần Khí của (Ngôi) Con” (Gl 4, 6), “Thần Khí của Chúa (Kitô)” (2Cr 3, 17), “Thần Khí của Đức Kitô” (Rm 8, 9), “Thần Khí của Đức Giêsu Kitô” (Pl 1, 19). Gọi như thế là Phaolô muốn khẳng định về thiên tính của Đức Giêsu; nếu không, thì sẽ hết sức tương phản, vì lẽ, cứ nói Thần khí là của Đức Giêsu, mà lại không chịu tin nhận Ngài có “niềm viên mãn trọn vẹn của thiên tính ở trong Ngài” (Cl 2, 9). Quả thế, Thần Khí là niềm viên mãn trọn vẹn của thiên tính. Nhưng trong Đức Kitô, niềm viên mãn ấy mang tính chất làm Con trong Thần Khí: vì lẽ chính trong Thần Khí ấy, Đức Kitô đã được sinh hạ.
Những gì vừa nhận định trên đây, có thể giúp soi sáng để thấu hiểu thêm về chính Thiên Chúa. Nếu Thần Khí là sức năng sinh hạ của Thiên Chúa, và nếu tất cả những gì thần học nói về bản tính Thiên Chúa đều được ngôi vị hóa, đều thuộc về Ngôi Vị Thần Khí, thì theo bản thể, Thiên Chúa (chủ yếu) là Cha. Bản thể của Ngài là thế, là ở trong việc sinh hạ vô tận khai sinh ra Ngôi Con vô biên. Thần học gia Eckhart đã nhận định rằng: “Khát vọng tuyệt đỉnh của Thiên Chúa là sinh hạ”[55]. Không thể quan niệm mầu nhiệm Thiên Chúa chỉ như là “một điều cao cả hơn tất cả những gì con người có thể suy tưởng ra được”; Thiên Chúa là Đấng tự trao ban chính mình, và đó chính là hành động vĩ đại hơn tất cả những gì có thể suy tưởng ra được. Ngài là Cha trong hành động sinh hạ vô tận khai sinh ra Ngôi Con vô biên. Thiên tính của Ngài là cốt tại ở nơi bản chất làm Cha, hệt như thiên tính của Đức Kitô là cốt tại ở nơi bản chất làm Con.
---Còn tiếp---
--------------------------------------------------------------------------
[33] Xin thử so sánh các câu: Mc 1,24 và 3,11; cũng như Ga 6,69 và Mt 16,16.
[34] Từ ấy chỉ được dùng tới ở trong một văn bản thuộc thời cuối trong tiến trình hình thành Tân Ước (2Pr 1,4), và rất có thể là do ảnh hưởng của tư tưởng Hy Lạp; xin xem Grundmann, TWNT II, tr. 310; Koster. TWNT IX, tt. 264-269.
[35] M.-J. Lagrange, Épitre aux Romains , bộ Études Bibliques, Paris, Ga-balda, 1916, tr. 8; J. Huby, Saint Paul. Épitre aux Romains, bộ Verbum Salutis, Paris, Beauchesne, 1940, tr. 46. Người ta cũng đã từng nghĩ rằng “thần khí vĩnh hằng” nhờ đó Đức Kitô đã tự hiến tế chính mình (Dt 9,14), là từ ngữ dùng để chỉ về bản tính Thiên Chúa
[36] Trong câu Cl 2,17, Đức Kitô chính là thân thể đã phóng xuất bóng hình của mình trước xa, vào tận trong giao ước thứ nhất
[37] Xem chú cước của bản dịch đại kết Traduction Oecuménique de la Bible về câu Cl 1,19. B. Bobrinskoy, Le mystère de la Trinité , trưng dẫn trên kia, tr. 73 (cũng xin xem các trang 77-81); tác giả viết: “Khi Phúc Âm và các Giáo Phụ nói rằng Thần Khí lưu lại trên Đức Kitô, thì điều đó cùng một lúc muốn chỉ về sự hiện diện theo ngôi vị (hypostatique ) của Thánh Linh cũng như về niềm viên mãn của thiên tính. Có một quan hệ tương ứng sâu xa ở giữa các cách thức diễn đạt vừa nói của Phúc Âm trong đó, Thần Khí được nêu đích danh, và câu của Phaolô viết rằng: ÀCó ở trong Ngài niềm viên mãn trọn vẹn của thiên tính'“ (Cl 1,19; 2,9). Về mối quan hệ tương ứng giữa Thánh Linh và “bản tính chung của Ba Ngôi Vị”, xin đọc V. Lossky, À l'image et à la ressemblance de Dieu , Paris, Aubier-Montaigne, 1967, tr. 70.
[38] Th. Ambrôxiô, De excessu fratris sui Satyri , 91, CCSL 73, tr. 299: “Tunc secundum carnem homo, nunc per omnia Deus.”
[39] Tôi xin được phép trưng dẫn đoạn sau đây, trích từ cuốn La Résurrection de Jésus, mystère de salut , Le Puy-Paris, Mappus, 1950, tr. 152: “Vì là người-thần khí, nên Đức Giêsu tỏ rõ mình là Người-Chúa. Để biểu đạt bản tính Thiên Chúa, Kinh Thánh dùng các từ Pneuma (Thần Khí) thánh, và doxa (vinh quang) của Đức Kitô; thực ra, doxa cũng mang ý nghĩa giống hệt như Pneuma .”
[40] E. Jacob, La Théologie de l'Ancien Testament, Neuchâtel, Delachaux et Niestlé, 1955, tr. 100; tác giả nhận thấy rằng trong Kinh Thánh, “Thần Khí làm nổi rõ đặc tính của tất cả những gì mà từ Thiên Chúa hàm súc.”
[41] P. Evdokimov, Le mystère de l'Esprit Saint , Paris, Mame, 1968, tr. 92; B. Bobrinskoy, Le mystère de la Trinité ,trưng dẫn trước đây, tr. 282: “Thánh Basiliô cho rằng sự Thánh thiện là đặc tính cá thể của Thần Khí”.
[42] Xin Thử so sánh Rm 8,4.14 và Ep 5,2; Rm 15,16 và Ep 1,4.
[43] Người Ta thường chất vấn rằng: tình yêu không thể là một đặc tính thuộc riêng ngôi vị Thần Khí được, bởi vì Thiên Chúa toàn thể là tình yêu, như đã viết trong câu 1Ga 4,8. Nhưng, nên lưu ý là trong câu sau đây, thánh Gioan cho thấy lời khẳng định vừa nói có nghĩa là Thiên Chúa yêu thương thế gian cho đến nỗi đã ban Con Một của mình cho thế gian (xem Ga 3,16). Vậy, nếu Thiên Chúa yêu thương dường ấy, thì câu văn trên đây vẫn có thể cho phép hiểu rằng Thần Khí, con tim của Thiên Chúa yêu thương, chính là tình yêu hiện thân trong một ngôi vị.
[44] Vinh tụng ca trong Kinh nguyện Thánh Thể.
[45] Đó là lối diễn đạt xem ra hơi lạ thường, nhưng lại được H. Muehlen, ưa chuộng: Der Heilige Geist als Person,Muenster, Aschendorff, 1963, tr. 164. Trong Thần Khí, mối hiệp nhất được hiện thực, nhưng đồng thời tính chất khác biệt cũng thành tựu: chính ở trong Thần Khi, Ngôi Cha sinh hạ, và Ngôi Con hiện hữu trong tư thế là Con. Cũng như tình yêu loài người đặt các nhân vị ở những cương vị đối diện, nhưng đồng thời cũng liên kết chúng lại
[46] Th. Âugutinô, De Trinitate , XV, 19, CCSL 50 A, tr. 523...
[47] Th. Âugutinô, De fide et symbolo , 1, 19 , CSEL 41, tr. 23.
[48] Th. Xyrilô thành Alêxanđria, Commentaire de l'évangile de Jean , 14, 17; 15, 1, PG 74, tr. 260, 333. - Thánh Irênê đã chẳng phát biểu tương tự như thế đó sao, khi ngài viết: “Cũng chính vì thế mà Chúa (Kitô) đã hứa phái gửi Đấng Bào Chữa Ủi An đến, là Đấng sẽ làm cho chúng ta nên thích hợp với Thiên Chúa” (Adv. haer ., III, 17, 2, SC 211, tr. 332)?
[49] F. Bolgiani, La théologie de l'Esprit Saint de la fin du premier siècle après Jésus-Christ au concile de Constantinople (381), trong Les quatre fleuves,9, Paris, Beauchesne, 1979, tr. 91. - Ngay cả nền thần học thời hậu tông đồ cũng đã từng bị nghi ngờ là “có tính cách thiên về nhị vị nhiều hơn là tam vị,” vì đã đồng nhất hóa Ngôi Lời với Thần Khí, làm như thể là chính Thần Khí đã nhập thể. L. Bouyer, Le Consolateur, trưng dẫn trên kia, tt. 137-140, trích dẫn những đoạn văn thật không ngờ nổi, nhưng đã biết đặt chúng vào trong bối cảnh chung của tư tưởng các tác giả, và bối cảnh này cho thấy họ là những người tin vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì thế, L. Bouyer đã có thể kết luận rằng: “Vậy, tuyệt nhiên không phải là Ngôi Con không khác biệt và không được phân biệt rõ với Thánh Linh, nhưng đơn thuần là, như chúng tôi đã nói trước đây, Đức Giêsu chính là “thiên tính” nhập thể, hay là “bản tính Thiên Chúa,” hoặc nói một cách mơ hồ hơn, là Àsự sống Thiên Chúa' nhập thể”.
[50] Th. Camelot, Ignace d'Antioche, SC 10, tr. 29. Xem Magn. 1, 2; Smyrn. 3, 2.
[51] Th. Irênê, Démonstration , 97, SC 62, tr. 167
[52] Th. Irênê, In Pascha. Sermo 2, PG 59, 726.
[53] Th. Atanaxiô, De Incarnatione, 8, PG 26, 996.
[54] Xem cước chú 39 trước đây: La Résurrection de Jésus ..., tr. 105.
[55] Sermo 11. Impletum est tempus Elisabeth : “Gottes hoechstes Streben ist gebaeren”; xem Meiter Eckhardts Predigten, cuốn 1, Stuttgart, Kohlhammer, 1958, tr. 177 và 472.