Ngày tháng: 21/12/2024
Đang truy cập: 77

KITÔ HỌC TRONG ÁNH SÁNG THÁNH LINH (3)

2. Thần Khí và thiên tính của Đức Giêsu,  Con Thiên Chúa

”Thần Khí sẽ ngự xuống trên bà... Chính vì thế  mà con trẻ sinh ra bởi bà sẽ là thánh,  được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1, 35). Thiên Chúa là  Thánh (1Sm 2, 2); Is 6, 3; 57, 15; Tv 99,3.5). Đức Giêsu là “Đấng  Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1, 24; Cv 3, 14; Kh 3, 7): “Chúng  tôi đã tin và nhận biết chính Ngài là Đấng  Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6, 69). Có lẽ danh tước  ấy là biểu thức cố cựu nhất nói lên niềm tin vào  thiên tính của Đức Giêsu; nó có liên hệ về ý nghĩa với  danh tước Con Thiên Chúa[33]. Theo Luca  1 ,35, cả hai danh tước ấy đều là danh tước riêng của  Đức Giêsu, vì lẽ Thánh Linh đã ngự xuống trên Đức  Maria. Đức Kitô là thánh bởi đã được Thần Khí  xức dầu: “Người Tôi Tớ thánh mà Ngài đã  xức dầu” (Cv 4, 27), mà Ngài đã “xức dầu  bằng Thánh Linh” (Cv 10, 38).

Để nói về thiên tính của Đức Giêsu, thần học thường  dùng khái niệm bản tính Thiên Chúa , được coi  như là một thứ khí cụ không thể thiếu được. Kinh Thánh  cũng cho phép và hợp thức hóa lối dùng từ  như thế, dù không đích thân dùng tới từ ngữ  ấy trong văn bản của mình[34]. Nhưng Kinh Thánh thừa nhận những gì thần  học nói về bản tính Thiên Chúa, và thừa nhận  với một danh nghĩa đặc biệt: với danh nghĩa của Thánh Linh,  là sự thánh thiện của chính Thiên Chúa.

Thiên Chúa thánh thiện ngự trên cõi trời cao: “Đây  là lời của Đấng cao vời thăm thẳm, Đấng ngự  trị muôn đời, Danh Người là thánh: ÀTa ngự cao vời  chí thánh'“ (Is 57, 15). Thần Khí là thể cách biểu đạt  của tính chất siêu việt ấy. Để biểu hiện chính mình ra,  Ngài đã ngự xuống: Ngài đã đến trên các anh  hùng dân tộc Ítraen (Tl 3, 10; 11, 29; 14,6.9...), trên  Sa-un (1Sm 10, 6), trên Đavít (1Sm 16, 13), và từ đó về  sau sẽ lưu lại trên vị vua này (Is 11,2 ). Ngài “ngự  xuống trên” Đức Maria (Lc 1, 35), trên Đức Giêsu (Mc 1, 10,  và các câu song song). Đức Giêsu cần phải đi lên (cùng  Cha) ngõ hầu ban Thánh Linh xuống (Ga 16, 7; 15, 26). Thần  Khí được gửi từ trên cao xuống (Lc 24, 49; 1Pr 1, 12) và  đã ngự xuống trên các Tông đồ (Cv 1, 8) “như thể tiếng  gió cuồng phong từ trời thổi đến” (Cv 2, 2). Sinh  ra từ Thần Khí là sinh ra từ trên cao, và là  trở thành phần tử của Nước Trời (Ga 3, 5)  theo cách thể của Đức Giêsu là Đấng thuộc thượng  giới (Ga 8, 23). Thánh Linh và tất cả những gì là  “tinh thần” đều thuộc thiên giới.

Là thượng giới, Thần Khí ở thế đối lập với “xác  phàm.” Không hẳn là không có lý do -- tuy làm  thế là không đúng -- để thỉnh thoảng người ta  đồng nhất hóa nhị thức tinh thần và xác phàm với hai bản tính trong Đức Kitô, tức là thiên tính  và nhân tính ; như là khi giải thích đoạn Rm 1,3-4  chẳng hạn[35]. Xác phàm chỉ về hữu  thể thụ tạo xét theo tư thế tách rời ra khỏi mối  quan hệ đối với Thiên Chúa, và theo cương vị khép kín ở  trong vòng tự trị của riêng mình, ngụp lặn trong yếu  đuối và trong cả tội lỗi nữa. Đối lại với  thân phận phù du mong manh ấy, Thần Khí (và tất cả  những gì là “tinh thần”) biểu dương rõ quyền  lực và sự thánh thiện của mình. Ngài là thực  tại thiên giới: chân chính có một không hai, và duy nhất  sung mãn ý nghĩa. “Xác phàm thì chẳng ích gì,”  còn “những lời” của Đức Giêsu, tức  là các thực tại mà Ngài nói đến, “là  thần khí và là sự sống” (Ga 6, 63). Các việc phụng  tự trần thế, nông cạn, sẽ nhường chỗ cho việc  phụng thờ “trong thần khí và sự thật,” bởi  vì “Thiên Chúa là thần khí” (Ga 4, 24), là bản  thể siêu việt thần linh.

Thể đối ngẫu thánh Phaolô dùng để so sánh giữa  văn tự và thần khí là một thí dụ minh họa cụ thể  về thực trạng đối chọi giữa xác phàm và Thần  Khí (tinh thần). Người đọc Kinh Thánh với cặp mắt mờ  đục nhìn qua màn che, sẽ dừng lại ở nơi văn  tự, ở nơi những thực tại nông cạn mặt ngoài,  chóng tàn. Nhưng khi đã biết quay về với Chúa (Kitô),  thì màn che rơi xuống, người đọc sẽ nhận ra được  thần khí, chiều sâu vững chãi của lịch sử thánh,  “vì Chúa (Kitô) là thần khí”[36]. Tiếp theo đó, tông đồ Phaolô đã lập luận dây chuyền,  bắt đầu từ Đức Kitô là thần khí, để đi tới cho đến  Thánh Linh: chiếc màn đã được vén lên, tầm nhìn được  tự do phóng rộng, vì “Thần Khí Chúa (Kitô) ở đâu,  thì tự do có ở đó” (2Cr 3,14-17). Do vậy, các từ  ngữ như: thần khí, thực tại vững chãi của lịch  sử, (tức là Đức Kitô) làm cho nghĩ ngay đến Thánh  Linh. Đức Kitô chính là thực tại sâu thẳm ấy, bởi  vì Ngài là “con người thuộc thiên giới,”  “thần khí tác sinh” (1Cr 15,45-47); trong Ngài, có  hiện diện niềm vinh quang rạng ngời của Thiên Chúa  (2Cr 3, 18; 4,4-6), tức là Thánh Linh.

Theo Thư gửi tín hữu Côlôxê (1, 19; 2, 9), Thiên Chúa  làm cho “niềm viên mãn lưu ngụ trọn vẹn (ở  trong Đức Kitô) ”, “niềm viên mãn trọn vẹn của  thiên tính.” Có thể coi đó là cách chỉ về “bản  tính Thiên Chúa”; tuy nhiên, như bản dịch đại kết TOB  chú cước, niềm sung mãn (plérôma ) là một khái  niệm có liên hệ rất gần với khái niệm Pneuma (Thần  Khí)[37].

Đối với Đức Giêsu, “con người theo xác phàm trước  kia, và nay toàn diện là Thiên Chúa”[38], cuộc sống lại là một cuộc “thiên chúa hóa” toàn  diện. Từ nay, các tín hữu nhìn nhận Ngài là  “Chúa và là Thiên Chúa” của mình (xem Ga  20, 28). Chính ở trong Thần Khí, Đức Đức Giêsu đã được  biến đổi -- “Ngài đã trở thành thần  khí tác sinh” (1Cr 15, 45); và cũng chính Thần Khí  đã mạc khải Ngài ra trong thiên tính của Ngài.  Thần Khí là cách thể biểu đạt bản chất siêu việt  của Thiên Chúa[39].

Thần học kể ra nhiều đặc tính của “bản tính Thiên  Chúa,” và coi chúng là chung của cả ba Ngôi.  Kinh Thánh cho thấy là các đặc tính cố hữu ấy của  Ngôi Cha và của Ngôi Con, thì cũng đều thuộc về  Thần Khí theo một danh nghĩa đặc biệt, đó là: chúng làm  như được ngôi vị hóa (hóa thành ngôi vị) ở trong Ngài[40].

Thiên Chúa là thánh , ba lần thánh; Thần Khí Thiên  Chúa là Thánh Linh; trong Ngài, sự thánh thiện của  mầu nhiệm Thiên Chúa chí thánh được biểu đạt ra. Ngài  được gọi “là sự thánh thiện đã hóa thành  ngôi vị”[41].

Thiên Chúa là Đấng Quyền năng ; đó là Tên của  Ngài: “Đấng quyền năng đã làm cho tôi những  điều cao cả lạ lùng” (Lc 1, 49); “Các ngươi sẽ  thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Quyền năng” (Mt  26, 64). Không bao giờ Thần Khí được gọi là Đấng Quyền  năng, nhưng Ngài chính là quyền năng hiện thân của  Thiên Chúa Quyền năng, là hoạt động thần tính qua đó  Thiên Chúa thực hiện mọi công trình của mình.

Thiên Chúa là Đấng Hằng sống . Ngài nói: “Ta  hằng sống” (Tl 8, 19; 1Sm 17,26.36; 1V 17, 1; 2V 19, 16; Ed đây  đó). Thần Khí là sự sống của Thiên Chúa hằng sống;  Ngài được gọi là “Thần Khí sự sống” (Rm 8, 2).  Đức Kitô đã được tác sinh bởi Thần Khí (1Pr 3, 18),  bởi quyền lực (2Cr 13, 4) và vinh quang (Rm 6, 4) của  Thần Khí. Nhờ bởi Thần Khí, Đức Kitô Phục Sinh cũng  đã trở thành “thần khí tác sinh” (Cr 15, 45).  Các tín hữu sống và tiến bước trong Thần Khí (Gl 5, 25).

Thiên Chúa là Đấng Vĩnh hằng (Vạn đại: St 21, 33;  Đn 6, 26; Rm 6, 4), và chính “nhờ Thần Khí vĩnh hằng,”  mà Đức Kitô đã tự hiến thân mình dâng lên Thiên  Chúa Cha” (Dt 9, 14).

Thiên Chúa là Tình yêu (1Ga 4,8.16), Thần Khí cũng  thế: “Tình yêu Thiên Chúa đã được tuôn đổ xuống tâm  lòng chúng ta bởi Thần Khí từng được trao ban cho  chúng ta” (Rm 5, 5). Theo một cách nói luôn luôn được Kinh  Thánh dùng tới, thì chính Thần Khí là Đấng đã được  “đổ xuống” (Ge 3,1-2; Is 32, 15; 44, 3; Dcr 12, 10; Cv 2, 18;  10, 45; Tt 3, 6); nhờ có tình yêu ấy hiện diện trong tâm  lòng, “lòng cậy trông sẽ không trở thành  tủi hổ” (Rm 5, 5) cho chúng ta; và ấn tín Thần Khí  ghi sâu trong tâm lòng chúng ta chính là bảo chứng  của ơn cứu độ (Ep 1,13-14; 4, 30). Còn nhiều đoạn khác  trong Kinh Thánh, tuy không nói rõ hẳn, nhưng cũng đều  gợi ý cho thấy tình yêu là một đặc tính cá thể của  Thần Khí: các cách nói: “trong Thần Khí” và “trong  tình yêu/lòng mến” có thể được dùng đổi lẫn  nhau[42]; các tín hữu Côlôxê đã được ban khen  vì họ có “lòng mến trong Thần Khí” (1, 8); lòng  mến ấy là hoa trái của Thần Khí (Gl 5, 22); Thần Khí  là quyền lực của thông hiệp (2Cr 13, 13) liên kết Giáo  Hội lại với Đức Kitô (Rm 8, 9), để cùng với Ngài làm  nên một thân thể duy nhất (1Cr 12,13.27); mà trong ngôn  ngữ nhân loại, sức mạnh ấy được gọi là tình yêu.  Thần Khí thì chống lại xác phàm, hệt như tình yêu đối  ngược lại với hận thù (Gl 3,17-23). Đức Giêsu, chết cho  xác phàm yếu đuối (xem Rm 8, 3), đã trở thành  “thần khí tác sinh” (1Cr 15, 45), thành con người  được thần thiêng hóa, sống trong tình trạng tự hiến trọn  vẹn: Thần Khí là tình yêu; Ngài ban cho Đức Kitô được  trở thành tình yêu[43].

Cuối cùng, Thiên Chúa là Một , là Duy  nhất . Việc phân biệt giữa các Ngôi Vị và bản  tính Thiên Chúa cho phép kết luận rằng Ngôi Cha và Ngôi  Con và Thần Khí là một do bởi bản chất duy  nhất của bản tính Ba Vị. Tuy nhiên, vì tính chất tam  thể giữa các Ngôi vị là thực tại huyền bí sâu thẳm  trong mầu nhiệm Thiên Chúa, cho nên bản chất duy nhất  của thiên tính cũng phải có nền tảng ngay ở  trong các Ngôi Vị. Không dùng đến từ ngữ “bản  tính Thiên Chúa/thiên tính,” Kinh Thánh chỉ nói đến “mối  thông hiệp của Thánh Linh” (2Cr 13, 13); phụng vụ thì  chúc tụng Ngôi Cha và Ngôi Con “trong niềm hiệp nhất  với Thánh Linh”[44]; các Giáo phụ và các thần học gia ca ngợi Thần  Khí với tước hiệu là “mối giây hiệp nhất.” Trong  Đấng là Thần Khí chung của mình, Ngôi Cha và Ngôi  Con liên kết với nhau trong mối hiệp nhất đặc thù của  một ngôi vị duy nhất: mối hiệp nhất của Thần Khí, là  “một Ngôi Vị ở trong hai Ngôi Vị kia”[45]. Mối kết liên nên một này là mối hiệp nhất  tuyệt đối, vì lẽ, ngôi vị thì bất khả phân liệt.

Các đặc tính ấy thuộc về Ngôi Cha cũng như Ngôi Con[46]; tuy nhiên, chúng được quy ủy cả cho Thần  Khí theo một danh nghĩa đặc biệt, và chúng nói lên bản  chất đặc trưng của Ngôi Vị Ngài. Đồng nhất hóa Thần  Khí với thực thể mà người ta gọi là bản tính  Thiên Chúa là một việc làm phản lý, bởi vì  theo định nghĩa, thiên tính thì phi ngôi vị (impersonnel).  Nhưng, việc các dữ liệu trên đây đồng quy về một mối,  cũng gợi ý cho hiểu rằng trong Thần Khí, những gì được  ngôi vị hóa cũng là những gì mà thần học quy  về cho bản tính Thiên Chúa. Vì vậy, không lạ gì thánh  Âugutinô đã tỏ ra có nhiều thiện cảm đối  với một ý tưởng do các tư tưởng gia thời ngài  đưa ra như thế này: “Một vài người đã có  can đảm nghĩ rằng mối hiệp thông giữa Ngôi Cha và  Ngôi Con, mà các tác giả Hy Lạp gọi là Theotês ,  là chính Thần Khí...: Vậy, họ chủ trương rằng thiên  tính ấy -- thiên tính mà họ cũng muốn hiểu đối  với tình yêu và tình mến hỗ tương giữa hai Ngôi  Cha và Con -- được gọi là Thần Khí”[47].

Có một lãnh vực (lãnh vực cuộc sống các tín hữu)  trong đó, các Giáo phụ và thần học gia nhất trí với nhau  để nhận rằng được ban cho ân huệ lãnh nhận Thần Khí là  được thông dự vào thực thể họ gọi là bản tính  Thiên Chúa: “Làm thế nào để tạo vật của Thiên  Chúa được thông dự vào chính bản tính của Thiên  Chúa? Bằng cách lãnh nhận Thánh Linh.” “Họ thông  dự vào bản tính (Thiên Chúa của Đức Kitô) vì đã  nhận lãnh Thần Khí.” “Ngôi Lời...dẫn nhập  vào trong các thánh một hình thái quan hệ thân tộc đối  với bản tính của Người bằng cách ban Thần Khí cho  họ”[48]. Lời khẳng định ấy đã được nói lên trong  câu Ga 3, 6, theo một cách diễn đạt có hơi khác: “Những  gì sinh bởi xác phàm là xác phàm, và những  gì sinh bởi Thần Khí là thần khí,” tức là mang  bản chất thiên giới, và thông dự vào bản  tính Thiên Chúa; đó là điều phù hợp với lời thánh  Phaolô phát biểu nói rằng: “Anh em không sống trong xác  phàm, mà là trong Thần Khí, nếu thực có Thần Khí  Thiên Chúa cư ngụ trong anh em” (Rm 8, 9).

Trong những thế kỷ đầu, từng có một truyền thống  dựa trên cơ sở các chứng cứ vững chắc, đã song  song đối chiếu Thần Khí với thiên tính của Đức Giêsu:  “Thần Khí thường được quan niệm như là thực thể  vô hình, tiền hiện hữu, và một cách nào đó như  là phương diện thần linh trong Đức Kitô”[49]. Có một thời, người ta cũng đã  nói rằng: “Đối với Inhã (Ăntiôkia) cũng như  đối với các tác giả trong những thế kỷ đầu, pneuma (thần khí) trong Đức Kitô chỉ về bản tính Thiên Chúa của  Ngài”[50]. Thánh Irênê viết  rằng: “Ngài (Ngôi Con) đã hiện ra giữa dương  thế và đã sống giữa loài người, bằng cách  hòa nhập và nhào trộn Thần Khí Thiên Chúa Cha  với xác thể do Thiên Chúa nắn nên...”[51]. ũng còn  nhiều chứng từ tương tự đọc thấy ở trong các bài  giảng về Phục sinh; thí dụ: “Nhờ máu đã đổ  ra, chúng ta được nhận Thánh Linh: bởi vì, máu và Thần  Khí đã được kết hợp với nhau ngõ hầu, nhờ máu  của bản tính chúng ta, chúng ta có thể nhận được Thần  Khí là Đấng trước đó, hằng xa lạ đối với chúng ta”[52]. Thánh Atanaxiô  hẳn đã lấy lại lối dùng ngôn ngữ như thế, khi  viết: “Vì thế, Ngôi Lời và Con của Thiên Chúa  Cha kết hợp với xác thể, đã trở thành xác thể,  con người toàn vẹn, để nhờ đó, những ai kết  hợp với Thần Khí thì cũng được trở thành thần  khí. Thiên Chúa đã hóa thành kẻ mang xác phàm (sarcophoros) để con người có thể trở thành người mang thần khí (pneumatophoros )”[53].

Truyền thống ấy có thể được coi là đã đặt cơ sở  trên tính cách biểu trưng của máu và nước chảy  ra từ cạnh sườn Đức Giêsu trên thập giá. Đối với  phúc âm gia, biến cố ấy có một tầm hưởng trọng yếu  đến độ ngài đã cảm thấy cần phải nói lên  một lời long trọng đoan thệ nhằm xác minh về tính chất  trung thực của nó: “Người ấy (Đức Kitô) biết là  người viết nói thật để cả anh em nữa cũng  tin như thế” (Ga 19, 34...), ngõ hầu anh em có được đức  tin. Thật thế, Phúc ân theo thánh Gioan đã được viết ra  “ngõ hầu anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô,  Con Thiên Chúa” (Ga 20, 31).

Đức Giêsu là Ngôi Lời đã hóa thành xác phàm  (Ga 1, 14); máu xác minh cho bản chất thực sự nhân loại  của con người Đức Giêsu. Nhưng Ngài cũng là  một hữu thể thiên giới: “Ta thuộc thiên giới”  (Ga 8, 23), nước xác minh cho điều ấy, vì nước là biểu tượng  của thế giới trên cao; bởi phép rửa, con người  được sinh ra từ trên cao (Ga 3, 5); nước mà Đức Giêsu  trao ban, sẽ trào phún đến sự sống đời đời  thuộc thiên giới (Ga 4, 14). Tuy nhiên, trong Kinh Thánh, nước  cũng là biểu trưng của Thần Khí Thiên Chúa: được  sinh ra từ trên cao là được cùng một trật sinh  ra từ Thần Khí, và nước tượng trưng cho Thần Khí (Ga  3, 6; Tt 3, 5). Đoạn Ga 7,37-39 cho thấy rằng nước hằng sống,  nước sẽ phún trào từ cung lòng Đức Kitô, đã  được hiểu là chính Thần Khí mà các tín hữu sẽ  lãnh nhận được, một khi Đức Giêsu đã được tôn vinh.  Và đây, Đức Giêsu đã được cất lên khỏi đất,  treo trên thập giá; đó là lúc, theo biểu trưng, Ngài  được tôn vinh trước tôn nhan Thiên Chúa: nước chảy ra  từ cạnh sườn, chỉ về Thần Khí sắp được ban ra, cũng  như chỉ về phương diện thiên giới của mầu nhiệm Đức Giêsu,  “ngõ hầu anh em tin.” Câu kết của đoạn trình  thuật tương ứng rất chỉnh với lời khẳng định ban đầu: “Chính  Ngài là Đấng thanh tẩy trong Thánh Linh ; còn  tôi, tôi đã xem thấy và xin đoan chứng rằng: chính  Ngài là Con Thiên Chúa ” (Ga 1, 34).

Trong khi Phúc âm thứ tư đặc biệt nhấn mạnh đến thiên tính  của Đức Giêsu, thì Thư thứ nhất của cùng một tác  giả Gioan lại lưu tâm thật nhiều tới bản chất đích  thực nhân loại của Ngài (xem 1Ga 4, 2): “Chính Ngài  là Đấng đã đến bởi nước và máu: Đức Giêsu  Kitô; không chỉ với nước mà thôi, nhưng là với nước  và máu” (1Ga 5, 6). Nước và máu nói lên tính chất  đặc thù của sự việc Đức Giêsu đến trong thế gian,  và như thế cũng nói lên bản tính của con người  Ngài. Ngài không chỉ đến như một Đấng xuống từ  thiên giới mà thôi, nhưng còn đến ở trong thân  xác của một con người nữa. “Thần Khí chứng  giám về điều ấy, vì Thần Khí là sự thật” (1Ga 5, 6).  Ngài làm chứng ở giữa lòng Giáo Hội (Ga  15, 26) và giúp cho mọi người nhận ra rằng đó chính  là sự thật. Nhưng, theo Luật Môsê, cần phải có lời  khai ăn khớp nhau của hai hoặc ba nhân chứng thì mới đủ.  Vì vậy, tác giả Gioan đã xuất trình thêm hai nhân chứng  khác: “Vì có ba nhân chứng (về sự việc Đức Giêsu đến  bởi nước và máu): Thần Khí, nước và máu, và  cả ba đều nhất trí với nhau trong cùng một lời  chứng” (1Ga 5, 8). Và lần này, nước và máu không  còn phải đơn thuần là những ẩn dụ nữa  -- những ẩn dụ gợi lên sự việc đến từ hai phía  đất và trời -- vì chỉ các thực tại mới có uy tín  để làm chứng: máu và nước đã lên tiếng khi tuôn  trào ra từ cạnh sườn của Đức Kitô, “ngõ  hầu anh em tin” vào Đức Kitô, là Đấng đã từng  đến bởi nước và máu.

Vậy, nước chảy ra từ cạnh sườn Đức Giêsu chỉ về  Thần Khí, là Đấng mà Ga 7,37-39 nói là sẽ phun  trào ra như nước, từ lòng Đức Kitô; nhưng nước  ấy cũng vén mở cho thấy phương diện thiên giới của  mầu nhiệm Đức Kitô. Thánh Linh và tính chất siêu việt  của Đức Giêsu đã được biểu đạt bởi cùng một  biểu tượng![54]

Tuy nhiên, cũng đừng nên lẫn lộn. Một khi đã  xác định về sự việc Đức Giêsu đến bởi nước và máu,  như là Đấng vừa thuộc thiên giới vừa thuộc địa  giới, thì ngay sau đó, bức thư của Gioan cũng đã  viện dẫn chứng từ của Thánh Linh (1Ga 5,6-8). Như  vậy, Thánh Linh là khác với Đức Kitô xét theo phương diện  tính chất thiên giới. Thánh Phaolô cũng làm hệt như  thế: sau khi đã công bố “Chúa (Kitô) là thần khí,”  thánh nhân nhận định tiếp ngay là: “Ở đâu có  Thần Khí của Chúa (Kitô), thì ở đó có tự do” (2Cr  3, 17). Ngôi Con xét về mặt thiên tính, và Thần Khí thì  không rời khỏi nhau được (bất khả phân ly), nhưng  vẫn là hoàn toàn khác biệt nhau.

Ngày nay, không còn có vấn đề trở lại đằng sau  với lối dùng ngôn ngữ thần học thời sơ khai, không  thể bỏ qua một bên được những giải thích chính  xác và rõ ràng về việc dành từ Pneuma để chỉ riêng về Ngôi Vị Thần Khí. Tuy nhiên, cũng nên  lưu ý tới sự kiện này là từ ấy đã từng  được dùng để chỉ về Thần Khí, cũng như về tính chất  thần linh của mầu nhiệm Đức Giêsu. Nếu từ ấy đã  được dùng như thế, thì chính là vì giữa hai Vị, hằng  có một mối tương quan mật thiết kết chặt.

Vậy, Kitô học có bổn phận phải chú trọng đến mối quan  hệ kia đối với Thánh Linh, cần phải coi đó là một  nhân tố cốt tủy trong mầu nhiệm Đức Giêsu. Chỉ cần lưu  ý đến sự kiện này không thôi, thì cũng đủ thấy  việc lưu tâm kia là điều tất yếu, đó là: mầu nhiệm  Đức Giêsu mang bản chất Thiên Chúa Ba Ngôi, nghĩa là  liên hệ đến cả Ngôi Cha lẫn Thần Khí. Đức Giêsu sống  trong một mối tương nhập tương tác lẫn (osmose /thấm  nhập vào nhau và có ảnh hưởng đối với nhau)  với Thần Khí, cũng như Ngài sống làm một với Thiên  Chúa Cha. Ngài là Con trong Thần Khí, và cũng  trong Thần Khí, Ngài là Thiên Chúa, vì Thần Khí là  sức năng sinh hạ trong Thiên Chúa, và tất cả những  gì lý trí con người có thể hiểu biết về bản tính Thiên  Chúa thì đều được ngôi vị hóa trong Thần Khí, thì đều là  chính Ngôi Vị Thần Khí. Được sinh hạ trong cung lòng Thần  Khí ấy, Ngôi Con được Ngôi Cha đem tất cả sự phong phú  vô biên của thiên tính mà bảo dưỡng cũng  tại trong cung lòng ấy. Có ở trong cung lòng ấy,  Đức Giêsu mới là Ngôi Con, mới là Thiên Chúa.

Đối với Đức Kitô, mối quan hệ với Thần Khí cốt tủy đến  độ có thể gọi Thần Khí là “Thần Khí của (Ngôi)  Con” (Gl 4, 6), “Thần Khí của Chúa (Kitô)” (2Cr  3, 17), “Thần Khí của Đức Kitô” (Rm 8, 9), “Thần  Khí của Đức Giêsu Kitô” (Pl 1, 19). Gọi như thế là  Phaolô muốn khẳng định về thiên tính của Đức Giêsu; nếu  không, thì sẽ hết sức tương phản, vì lẽ, cứ nói  Thần khí là của Đức Giêsu, mà lại không chịu tin  nhận Ngài có “niềm viên mãn trọn vẹn của  thiên tính ở trong Ngài” (Cl 2, 9). Quả thế, Thần  Khí là niềm viên mãn trọn vẹn của thiên tính.  Nhưng trong Đức Kitô, niềm viên mãn ấy mang tính chất làm  Con trong Thần Khí: vì lẽ chính trong Thần Khí ấy, Đức Kitô  đã được sinh hạ.

Những gì vừa nhận định trên đây, có thể giúp soi sáng  để thấu hiểu thêm về chính Thiên Chúa. Nếu Thần Khí là  sức năng sinh hạ của Thiên Chúa, và nếu tất cả  những gì thần học nói về bản tính Thiên Chúa đều  được ngôi vị hóa, đều thuộc về Ngôi Vị Thần Khí, thì theo  bản thể, Thiên Chúa (chủ yếu) là Cha. Bản  thể của Ngài là thế, là ở trong việc sinh  hạ vô tận khai sinh ra Ngôi Con vô biên. Thần học gia Eckhart  đã nhận định rằng: “Khát vọng tuyệt đỉnh của Thiên  Chúa là sinh hạ”[55]. Không thể quan niệm mầu nhiệm Thiên  Chúa chỉ như là “một điều cao cả hơn tất cả  những gì con người có thể suy tưởng ra được”;  Thiên Chúa là Đấng tự trao ban chính mình, và đó chính  là hành động vĩ đại hơn tất cả những gì có  thể suy tưởng ra được. Ngài là Cha trong hành  động sinh hạ vô tận khai sinh ra Ngôi Con vô biên. Thiên tính  của Ngài là cốt tại ở nơi bản chất làm  Cha, hệt như thiên tính của Đức Kitô là cốt tại ở  nơi bản chất làm Con.

---Còn tiếp---

--------------------------------------------------------------------------

[33] Xin thử so sánh các câu: Mc  1,24 và 3,11; cũng như Ga 6,69 và Mt 16,16.

[34] Từ ấy chỉ được dùng  tới ở trong một văn bản thuộc thời cuối trong  tiến trình hình thành Tân Ước (2Pr 1,4), và rất có  thể là do ảnh hưởng của tư tưởng Hy Lạp;  xin xem Grundmann, TWNT II, tr. 310; Koster. TWNT IX,  tt. 264-269.

[35] M.-J. Lagrange, Épitre aux Romains , bộ  Études Bibliques, Paris, Ga-balda, 1916, tr. 8; J. Huby, Saint  Paul. Épitre aux Romains, bộ Verbum Salutis, Paris, Beauchesne,  1940, tr. 46. Người ta cũng đã từng nghĩ rằng  “thần khí vĩnh hằng” nhờ đó Đức Kitô đã tự  hiến tế chính mình (Dt 9,14), là từ ngữ dùng  để chỉ về bản tính Thiên Chúa

[36] Trong câu Cl 2,17,  Đức Kitô chính là thân thể đã phóng xuất bóng hình  của mình trước xa, vào tận trong giao ước thứ nhất

[37] Xem chú cước của bản dịch đại kết Traduction  Oecuménique de la Bible về câu Cl 1,19. B. Bobrinskoy, Le  mystère de la Trinité , trưng dẫn trên kia, tr. 73 (cũng  xin xem các trang 77-81); tác giả viết: “Khi Phúc Âm  và các Giáo Phụ nói rằng Thần Khí lưu lại trên Đức Kitô,  thì điều đó cùng một lúc muốn chỉ về sự hiện diện theo  ngôi vị (hypostatique ) của Thánh Linh cũng như  về niềm viên mãn của thiên tính. Có một quan hệ tương  ứng sâu xa ở giữa các cách thức diễn đạt vừa  nói của Phúc Âm trong đó, Thần Khí được nêu đích danh,  và câu của Phaolô viết rằng: ÀCó ở trong Ngài  niềm viên mãn trọn vẹn của thiên tính'“ (Cl 1,19;  2,9). Về mối quan hệ tương ứng giữa Thánh Linh và “bản  tính chung của Ba Ngôi Vị”, xin đọc V. Lossky, À  l'image et à la ressemblance de Dieu , Paris, Aubier-Montaigne,  1967, tr. 70.

[38] Th.  Ambrôxiô, De excessu fratris sui Satyri , 91, CCSL 73, tr. 299: “Tunc secundum carnem homo, nunc per omnia Deus.”

[39] Tôi xin được phép trưng dẫn đoạn  sau đây, trích từ cuốn La Résurrection de Jésus, mystère  de salut , Le Puy-Paris, Mappus, 1950, tr. 152: “Vì là  người-thần khí, nên Đức Giêsu tỏ rõ mình là  Người-Chúa. Để biểu đạt bản tính Thiên Chúa, Kinh  Thánh dùng các từ Pneuma (Thần Khí) thánh, và doxa (vinh quang) của Đức Kitô; thực ra, doxa cũng mang ý nghĩa giống hệt như Pneuma .”

[40] E. Jacob, La Théologie de l'Ancien Testament, Neuchâtel,  Delachaux et Niestlé, 1955, tr. 100; tác giả nhận thấy rằng  trong Kinh Thánh, “Thần Khí làm nổi rõ đặc tính  của tất cả những gì mà từ Thiên Chúa hàm súc.”

[41] P. Evdokimov, Le mystère de l'Esprit Saint ,  Paris, Mame, 1968, tr. 92; B. Bobrinskoy, Le mystère de la  Trinité ,trưng dẫn trước đây, tr. 282: “Thánh Basiliô  cho rằng sự Thánh thiện là đặc tính cá thể của Thần  Khí”.

[42] Xin Thử so sánh Rm 8,4.14 và Ep 5,2; Rm 15,16  và Ep 1,4.

[43] Người Ta thường chất  vấn rằng: tình yêu không thể là một đặc tính thuộc riêng  ngôi vị Thần Khí được, bởi vì Thiên Chúa toàn thể  là tình yêu, như đã viết trong câu 1Ga 4,8. Nhưng, nên  lưu ý là trong câu sau đây, thánh Gioan cho thấy lời  khẳng định vừa nói có nghĩa là Thiên Chúa yêu  thương thế gian cho đến nỗi đã ban Con Một của  mình cho thế gian (xem Ga 3,16). Vậy, nếu Thiên Chúa yêu thương  dường ấy, thì câu văn trên đây vẫn có thể cho phép  hiểu rằng Thần Khí, con tim của Thiên Chúa yêu thương,  chính là tình yêu hiện thân trong một ngôi vị.

[44] Vinh tụng ca trong Kinh nguyện Thánh  Thể.

[45] Đó là  lối diễn đạt xem ra hơi lạ thường, nhưng lại được H.  Muehlen, ưa chuộng: Der Heilige Geist als Person,Muenster,  Aschendorff, 1963, tr. 164. Trong Thần Khí, mối hiệp nhất được  hiện thực, nhưng đồng thời tính chất khác biệt cũng  thành tựu: chính ở trong Thần Khi, Ngôi Cha sinh hạ,  và Ngôi Con hiện hữu trong tư thế là Con. Cũng  như tình yêu loài người đặt các nhân vị ở những  cương vị đối diện, nhưng đồng thời cũng liên kết chúng  lại

[46] Th. Âugutinô, De Trinitate , XV, 19, CCSL 50 A,  tr. 523...

[47] Th. Âugutinô,  De fide et symbolo , 1, 19 , CSEL 41, tr. 23.

[48] Th. Xyrilô thành Alêxanđria, Commentaire de  l'évangile de Jean , 14, 17; 15, 1, PG 74, tr. 260, 333.  - Thánh Irênê đã chẳng phát biểu tương tự như thế đó  sao, khi ngài viết: “Cũng chính vì thế mà Chúa  (Kitô) đã hứa phái gửi Đấng Bào Chữa Ủi  An đến, là Đấng sẽ làm cho chúng ta nên thích hợp  với Thiên Chúa” (Adv. haer ., III, 17, 2, SC 211,  tr. 332)?

[49] F. Bolgiani,  La théologie de l'Esprit Saint de la fin du premier siècle  après Jésus-Christ au concile de Constantinople (381),  trong Les quatre fleuves,9, Paris, Beauchesne, 1979, tr. 91.  - Ngay cả nền thần học thời hậu tông đồ cũng  đã từng bị nghi ngờ là “có tính cách thiên  về nhị vị nhiều hơn là tam vị,” vì đã đồng nhất  hóa Ngôi Lời với Thần Khí, làm như thể là chính  Thần Khí đã nhập thể. L. Bouyer, Le Consolateur, trưng  dẫn trên kia, tt. 137-140, trích dẫn những đoạn văn  thật không ngờ nổi, nhưng đã biết đặt chúng vào  trong bối cảnh chung của tư tưởng các tác giả,  và bối cảnh này cho thấy họ là những người  tin vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì thế, L. Bouyer  đã có thể kết luận rằng: “Vậy, tuyệt nhiên không  phải là Ngôi Con không khác biệt và không được  phân biệt rõ với Thánh Linh, nhưng đơn thuần là, như  chúng tôi đã nói trước đây, Đức Giêsu chính là “thiên  tính” nhập thể, hay là “bản tính Thiên Chúa,”  hoặc nói một cách mơ hồ hơn, là Àsự sống Thiên Chúa'  nhập thể”.

[50] Th. Camelot, Ignace d'Antioche, SC 10, tr.  29. Xem Magn. 1, 2; Smyrn. 3, 2.

[51] Th. Irênê,  Démonstration , 97, SC 62, tr. 167

[52] Th. Irênê, In Pascha. Sermo 2, PG 59, 726.

[53] Th. Atanaxiô, De Incarnatione, 8, PG 26, 996.

[54] Xem cước chú 39 trước đây: La Résurrection  de Jésus ..., tr. 105.

[55] Sermo 11. Impletum est tempus  Elisabeth : “Gottes hoechstes Streben ist gebaeren”; xem   Meiter Eckhardts Predigten, cuốn 1, Stuttgart, Kohlhammer,  1958, tr. 177 và 472.

zalo
zalo