LỄ NGHĨA TRONG NỀN ĐẠO ĐỨC KHỔNG MẠNH
The Role of Li-yi in the Confucian Morals
Trần Văn Đoàn *
In Memory of Rev. Dr. Vũ Đình Trác (1927-2003)
A Christian Confucian Scholar.
Abstract
This paper attempts to search for an authentic understanding of the role of lễ (li) in the ethics of Vietnamese Confucianism, once biased as the cause of social backwardness by Westernized anti-Confucians. In my view, lễ expresses the ontological dimension of the Viet life-world, and is manifested in various forms of living. Since lễ is ontologically constituted, it is bound to nghĩa (yi), too close and intimate that the former would lose its existence without the support of the latter. In this sense, lễ is not restricted in the formal rites (lễ nghi); it is not defined by the rules of ceremonies and worship (nghi thức) either. It surpasses the limit of legal obligations and reveals the hidden moral conscience in our proper acts, behaviours and language.
This work is divided into two main parts: the first part traces back the original meaning of lễ in the classics of Confucianism, while the second part attempts to rediscover under the surface of the Viet life-world the exact meaning of lễ-nghĩa (li-yi).
Key-words:
Lễ, Nghĩa, Lễ-nghĩa, Confucian morals, Viet-mores.
LỄ NGHĨA TRONG NỀN ĐẠO ĐỨC KHỔNG MẠNH
The Role of Li-yi in the Confucian Morals
Trần Văn Đoàn*
1. Đặt Lại Vấn Đề - Vai trò của Lễ Nghĩa.
Luận văn sau đây nhắm tìm hiểu vai trò của của lễ nghĩa trong nền đạo đức Khổng Mạnh. Chúng tôi đặc biệt chú ý tới vai trò của lễ nghĩa vì nhiều lý do, trong đó có một lý do rất quan trọng, đó là vai trò của lễ nghĩa đã hòa lẫn vào trong huyết quản của người Việt. Quá sâu đậm đến độ văn hóa, cách thẩm định giá trị của người Việt không thể tách rời khỏi quan niệm lễ và nghĩa. Nhưng cũng vì gốc rễ nó đâm sâu gắn chặt vào cuộc sống, nên cái lễ cũng là một trở ngại khiến xã hội Việt không dễ tiến bộ. Sự quá trọng nghi lễ đến độ nô lệ vào hình thức cuả nghi mà quên đi tinh thần của lễ, đã làm xã hội đông phương nói chung, và xã hội Việt nói riêng trì trệ. Cái tính nệ nghi thức không chỉ khiến con người viễn đông thiếu suy tư và thụ động, nó còn bóp nghẹt tình cảm con người. Và đây là cái cớ khiến nhóm trí thức theo Tây phương đã kịch liệt đả phá lễ nghĩa Nho giáo[1].
Luận văn của chúng tôi không chối bỏ công lao của những người từng phá núi đắp sông, biến bãi biển thành ruộng dâu trong lãnh vực văn hóa, những bậc đại nho đã từng gây dựng nền văn hóa dân tộc. Chúng tôi củng không phủ định những đóng góp của những người phê bình Nho giáo. Những vị sau đã nhìn ra sự nguy hại của tinh thần lệ lễ, tình trạng chậm chạp vì quá trọng hình thức và sự thiếu suy tư vì quá nô lệ vào những lễ nghi, những tập tục. Đi xa hơn, qua luận văn này, chúng tôi theo một cái nhìn khách quan, tìm cách đào sâu, tìm hiểu thêm tinh thần của lễ nghĩa. Tuy nhắm khôi phục tinh thần lễ nghĩa, chúng tôi cũng ý thức được cái ma lực của lễ, và do đó cùng lúc muốn phá bỏ huyền thoại quá lệ thuộc vào nghi lễ mà những nhà hủ nho từng khư khư ôm vào. Qua công việc khôi phục lại cái địa vị vốn có của lễ nghĩa, luận văn này tiếp tục chương trình đào bới lại cái giá trị của nền đạo nghĩa Việt mà chúng tôi đã bắt đầu vào những năm gần đây[2]. Luận văn gồm hai phần chính: phần thứ nhất tìm hiểu chữ lễ trong văn bản của Nho học, đặc biệt trong Luận Ngữ, Mạnh Tử, Lễ Ký, và phần nào đó trong tư tưởng của Tuân Tử; phần thứ hai đi xa hơn, nhắm khơi quật và đào sâu tư tưởng Việt qua việc phân tích và nhận định sự biến chuyển từ quan niệm lễ trong triết học Trung Hoa tới cách sống theo lễ trong cuộc sống của người Việt. Chúng tôi đặc biệt tìm hiểu sự liên quan mật thiết giữa chữ lễ và chữ nghĩa, một đặc điểm mà ta thấy ít có (hay hiếm hoi) trong lối tư duy của người phương Bắc. Mạnh Tử đã từng nhấn mạnh tới nhân nghĩa, và phần nào đó lễ nghĩa[3], nhưng chỉ nơi Việt Nho, chúng ta mới thấy tầm quan trọng của nghĩa[4]. Nếu những nhận xét của các học giả như cố Giáo sư Trần Đình Hượu, các Giáo sư Trần Quốc Vượng và Phan Đại Doãn tại Đại Học Khoa Học Xã Hội Nhân Văn Hà Nội có căn bản, thì đối với các nho gia Việt, và ngay cả giới bình dân Việt, lễ nghĩa mới thực là quan trọng. Nếu chỉ có lễ, tức chỉ có hình thức, thì đó chỉ là tính chất bên ngoài, chứ chưa có thể nói lên được cái bản chất của lối sống của người Việt. Từ những nghiên cứu này, chúng tôi muốn chứng minh, lễ mà thiếu nghĩa sẽ bị sa đọa vào cái hố trọng hình thức thiếu nội dung, nhưng nếu thiếu lễ, nghĩa trở lên trống rỗng. Nói theo kiểu bình dân, lễ là cái vỏ, trong khi đó, nghĩa là cái ruột; và nói theo ngôn ngữ Aristotle, thì lễ là mô thức (forma) và nghĩa là chất liệu (materia).
2. Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn[5]
Sáu chữ trên không có xa lạ gì với người Việt chúng ta. Chúng đã biến thành những khẩu hiệu nằm trên đầu môi ngọn luỡi của các nhà sư phạm, của các bậc phụ huynh, của nhiều vị “dân chi phụ mẫu”, và đôi khi cũng là chính sách của nhà nước nữa. Chúng ta cũng không lạ lẫm gì khi mà hầu hết những tác phẩm thi ca kinh điển của những bậc đại nho đều ca tụng và nâng lễ nghĩa lên thành một đức tính, tương đương với tam tòng tứ đức, đôi khi lại còn hơn thế nữa. Nguyễn Du coi lễ như là quy tắc, trong khi Nguyễn Đình Chiểu lấy chữ lễ làm nòng cốt của nền tư tưởng đạo đức. Trong Lục Vân Tiên, cụ đồ họ Nguyễn nhắc đi nhắc lại không biết mệt cái chữ lễ mà cụ coi như là khuôn vàng thước ngọc đo cái giá trị làm người. Nói một cách khác, nhà thi sĩ mù lòa chất phác này đồng nghĩa lễ với luân thường đạo lý, và thường thì coi lễ như là nền tảng của đạo đức. Qua câu thơ “Thôi thôi, ngồi đó chớ ra. Nàng là phận gái ta là phận trai”, ta nhận thấy một cách rõ ràng là cụ đồ họ Nguyễn đã đồng hóa lễ trong việc đối xử giữa trai-gái với quy luật “nam nữ thọ thọ bất thân” của thời Hán. Thực ra, cụ đồ Chiểu đã phản ánh cái tâm thức chung coi lễ không khác chi là quy luật của người bình dân Việt: “Cá không ăn muối cá ươn - Con không giữ lễ (nghe mẹ) trăm đường con hư” mà thôi. Thế nên, “tiên học lễ, hậu học văn” đã trở thành một quy tắc tất yếu, suy diễn từ lối nhìn bình dân như vậy.
Lối suy tư coi lễ là lề luật[6] có phải là lối suy tư đại biểu duy nhất của Việt Nho hay không, đây là một điểm đáng được tranh luận. Theo thiển kiến của chúng tôi, quan niệm này chỉ đúng được phần nào, bởi lẽ câu hỏi quan trọng hơn nằm ở sau, đó là, nếu lễ là quy luật, thì đó là qui luật gì? Nếu nó chỉ là pháp luật, hình luật, thì lễ chưa phản ánh được cái lễ nghĩa của người Việt, nhưng nếu lễ là quy luật sống, thì nó mới thực là lễ nghĩa.
Như mọi người đều thấy, ngay từ thời thơ ấu, chúng ta đã được đào tạo phải giữ đạo nghĩa, mà đạo nghĩa thường không phải chi khác hơn là chính lễ nghĩa. Lễ phép, lễ độ, lễ nghĩa, lễ nghi, lễ phục… là những quan niệm, hay nói đúng hơn là những quy luật (codes), những cách thế (manners), những biểu tượng (expressive symbols), những chuẩn mực (criteria) đo lường con người Việt. Chúng ăn sâu vào trong tâm não, chúng nằm chặt trong mạch máu, đến độ chúng ta đồng hóa lễ với giá trị, với nền đạo đức, và với tất cả cuộc sống của người Việt. Chúng ta đánh giá một người, một phụ nữ, một quan chức, một giáo chức và ngay cả một người học sinh tùy theo hành vi lễ độ, lễ phép của họ. Ta xem họ có giữ lễ và hành vi, ngôn ngữ, cách xử thế của họ có đúng lễ hay không: cha phải ra cha, con phải ra con, thầy phải ra thầy, trò phải ra trò[7]. Chúng ta kính trọng một người nào đó cũng là vì họ giữ lễ giữ nghĩa. Chúng ta coi thường những người “vô lễ”, “vô phép, vô tắc”, “vô lương”, những kẻ “bất nghĩa”, “bất tín”, “bất trung”, “bất hiếu”, “bất nhân”[8], những người mà ta thường đùa cợt cho là người không ra người, ngợm không ra ngợm[9].
--- Còn tiếp ---
* Trần Văn Đoàn, Tiến sỹ Triết Học (Austria, 1975), Tiến sỹ Danh Dự (Canada, 2001), Viện sỹ (Academia di Lincei (1987) và Paulus Gesellschaft (1988). Giáo Sư Triết Học, National Taiwan University (Taiwan, China). Giáo sư Thỉnh Giảngỉ tại trên 15 Đại Học tại Aâu, Á và Mỹ châu, trong đó có ĐH Vienna (1996), ĐH Peking (1996), ĐH Oxford (1997), ĐH Louvain (1994), ĐH Notre Dame (1989), Viện Triết Học, Trung Tâm Khoa Học Quốc Gia Việt Nam (2002), Đại Học Hà Nội (2003). Ông hiện giữ chức Chủ Tịch The Union of Asian Philosophers, Phó Chủ Tịch The World Union of Catholic Philosophical Societies cũng như Uũy Viên Điều Hànhỉ (Board of Directors) của Trung Quốc Triết Học Hội (Trung Hoa) và Fédération Internationale des Sociétés de Philosophie (Geneva). Tác phẩm đại biểu: Nihilisme de Nietzsche - Essai sur la métaphysique nietzschéenne (1975, Pháp ngữ); Kritik der Marxschen Dialektik (1978, Đức ngữ); Việt Triết Luận Tập (2000, Việt ngữ); Reason, Rationality, Reasonableness (1989, 2000), The Poverty of Ideological Education (1993, 2001); The Idea of a Viet-Philosophy (2 vols) (2002-3); Chính Trị dữ Đạo Đức (1998, Hoa ngữ); Ý Thức Hình Thái đích Giáo Dục Bình Khốn (1999, Hoa ngữ); Hiện Đại Phụ Nữ Triết Học (2002, Hoa ngữ); The Idea of a Viet-Philosophy (2 vols) (2003-2004).
[1] Tại Trung Hoa với Phong Trào Ngũ Tứ. Tại Việt Nam với phong trào cải cách của những nhà Tây học như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, và tiếp theo của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Thực tâm mà xét, những cuộc tấn công vào những giá trị Nho giáo của nhóm Tự Lực Văn Đoàn nhắm vào cái tệ hại quá trọng hình thức, quá lệ thuộc vào nghi lễ từ lối ăn mặc cho tới cách xưng hô, và nhất là sự sự ràng buộc của cơ chế xã hội và gia đình dựa trên nghi lễ, không phải hoàn toàn vô lý. Mối nguy hiểm nơi họ là thái độ vơ đũa cả nắm, và cái bệnh quáng gà vì cái ánh sáng quá mạnh của nền văn minh Tây phương, nên đâm theo Tây phương một cách rất ư vô thức. Họ chưa nhận ra được sự khác biệt giữa tinh thần của lễ với những hình thức của lễ. Hình thức có thể biến đổi, nhưng tinh thần “hưng ư thi, lập ư lễ, thành ư nhạc” của Khổng Tử không hề vì thời gian mà mất đi tính chất quan trọng của nó.
[2] Xin tham khảo Trần Văn Đoàn, “The Concept of Dao-Yi in Viet-Nho” trong The Third International Conference on Confucianism in Vietnam (Cambridge, Mass.: Harvard Yenching Institute, 2002); Trần Văn Đoàn, “Confucianism in Vietnam” trong Encyclopedia of Chinese Philosophy (London: Routledge, 2003); Trần Văn Đoàn, The Idea of a Viet-Philosophy, vol. 1. The Formation of Vietnamese Confucianism (Washington, D.C.: The Council for Research in Values and Philosophy, 2003), cũng như Trần Văn Đoàn, Việt Triết Luận Tập, Thượng Tập (Washington, D.C.: The Vietnam University Press, 2000), và Trần Văn Đoàn, Những Suy Tư về Khả Thể của Một Nền Thần Học Việt Nam (đương xuất bản).
[3] Tuy Mạnh Tử đã nhận ra vai trò của nghĩa, trong quan niệm nhân nghĩa, nhưng một sự kiện bắt ta phải suy nghĩ, đó là người Trung Hoa phải đợi tới cả mấy trăm năm sau, mới thấy một số nho gia khai quật quan niệm của thầy. Ta biết sựỉ gắn liền lễ vào nghĩa xảy ra hơi muộn vào thời Tống Minh. Theo Hồ Thích (Trung Quốc Triết Học Sử Đại Cương, Tập 1. Đài Bắc: Thương Vụ xbx, 1947, ctr. 137-8), thì nho gia thời Tống Minh hiểu lễ trong mạch văn của nghĩa, mà nghĩa ở đây mang tính chất “điều phải” và “hợp lý”. James Legge, nhà truyền giáo người Anh, dịch giả Anh ngữ của bộ Tứ Thư Ngũ Kinh, trích dẫn một đoạn trong tập sách Trọng Ni Ngôn Cố (của một nhà nho thời Tồng) về lễ như sau: “[Những quy luật của] lễ là cách biểu tả mật thiết của nghĩa. Bất cứ hành vi lễ (nghi) nào phù hợp với nghĩa, đều có thể được chấp nhận, ngay cả khi nó không từng thấy nơi những bậc thánh hiền.” Xin thk James Legge, The Li Ki or Collection of Treatises on The Rules of Propriety or Ceremonial Usages, 1985, 2 vols. Tái in trong Max Mueller ed., The Sacred Books of the East, Dehli: Motilal Banarsidass, 1966, p. 275). Đoạn này chúng tôi trích lại từ A. S. Cua, “Li: Rites or Propriety” trong The Encyclopedia of Chinese Philosophy, sđd., ctr. 370-385.
[4] Xin Tkh. Trần Văn Đoàn, “The Concept of Dao-Yi in Viet-Nho”, op. cit. Cũng xin tham khảo Trần Đình Hượu, Đến Hiện Đại từ Truyền Thống (Hà Nội: Văn Hóa, 1996). Lần xuất bản thứ hai. Giáo sư Phan Đại Doãn, môn sinh của Giáo sư Trần Đình Hượu từng nhận định: “Môi trường xã hội Việt Nam có khác nên lý thuyết và tư tưởng Nho giáo từ Trung Quốc và Việt Nam phải được “điều kiện hóa.” Các quan niệm hiếu, trung, nhân, lễ (cốt lõi của Nho giáo) khi vào Việt Nam thường gắn liền với nghĩa. Theo chúng tôi, trong các quan hệ họ hàng, làng xã, đất nước của người Việt đều xây dựng trên quan niệm nghĩa, trước hết là nghĩa. Nói cách khác, nghĩa là điều kiện hóa của hiếu, của trung, của nhân, của lễ. Người Việt Nam thường nói hiếu nghĩa, trung nghĩa, nhân nghĩa và lễ nghĩa, và dường như hiếu, trung, nhân, lễ phải được hiểu và ứng xử như là nghĩa. Có người cho rằng ở Nhật Bản trung chiếm địa vị chủ đạo thì ở Việt Nam, theo chúng tôi nghĩa là vị trí quan trọng hơn, nổi trội hơn.” Tích từ Phan Đại Doãn, “Một Số Đặc Điểm Nho Giáo ở Việt Nam”, trong Tập san Khoa Học Xã Hội Nhân Văn (Đại Học Quốc Gia Tph Hồ Chí Minh - Đại Học Khoa Học Xã Hội Nhân Văn), số 3, 1997, ctr.55-61, trích từ tr. 58.
[5] Tinh thần câu này tuy vốn rút từ Lễ Kýù. Nhưng trên thực tế, lối giải thích tầm quan trọng của lễ vượt khỏi văn là một lối lí giải cưỡng ép. Trong tư tưởng của đức Khổng, lễ, nhạc, văn, thi … tất cả đều có một tầm quan trọng gần như ngang nhau, bởi lẽ chúng biểu tả bản tính chân thật (tức bản thể) của con người. Trong Lễ Ký (Lễ Vận) có câu: “Nhân tính giả, thánh vương chi điền dã tu lễ dĩ canh chi” (Lễ Vận, 4:7 (12) (Bản tính con người vốn (tình cảm), thánh vương cũng vậy, nên cần phải có lễ để cải đổi). Ngoài ra trong Luận Ngữ, ta thấy cũng có những câu mang ý nghĩa tương tự, nói lên tầm quan trọng của cả văn lẫn lễ, như (LN 6:25 (Ung giã), LN 8:8 (Thái Bá), vân vân): “Tử viết, “Quân tử bác học ư văn, ước chi dĩ lễ, diệc khả dĩ phất hạn hĩ phù?” (Người quân tử học rộng về văn chương, ước thúc bằng lễ, cũng khả dĩ không trái đạo chăng). Vào đầu thế kỷ 20, nhiều nhà tân học đã có một thái độ quá khích, tìm cách phả bỏ lễ nghĩa, bởi vì họ cho rằng, nghi lễ, lễ nghĩa chỉ là nhưng sản phẩm rác rưởi của phong kiến. Cách Mạng Văn Hóa (1966-1976) chủ trương phá đổ nghi lễ, tập tục cũng như nền đạo đức cổ truyền. Xin tkh. Bill Brugger, China : The Impact of the Cultural Revolution (London: Croom Helm, 1978). Gần hai thập năm qua, sau sự đổ vỡ của chủ thuyết họ Mao, và với chính sách đổi mới, nhà nước Bắc Kinh đã tái nhận ra tầm quan trọng của lễ nghĩa. Xin tkh. Ding X.L., The Decline of Communism in China: Legitimacy Crisis, 1977-1989 (Cambridge - New York: Cambridge University Press, 1994), cũng như Zhang Wei-wen, Ideology and Economic Reform under Deng Xiao-ping, 1978-1993 (London - New York: Kegan Paul, 1996) và Kalpana Misra, From Post-Maoism to Post-Marxism: The Erosion of Official Ideology in Deng’s China (London: Routledge, 1998). Tại Việt Nam gần đây, chúng ta thấy có chính sách khôi phục lại truyền thống. Khẩu hiệu tiên học lễ hậu học văn tái xuất hiện trên các bức tường, cổng của các trường tiểu học. Xem ra lại có vẻ còn nhiều hơn cả vào thời cố tổng thống Ngô Đinh Diệm (1900-1963), một nhà nho từng bị phê phán (hơi sai) là thủ cựu, quan lại. Thực ra, họ Ngô rất trọng lễ, nhưng không thủ cựu.
[6] Đa số các nhà ngữ học lí giải chữ lề luật theo nghĩa là lề (một cái góc, hay cạnh của áo, quần; thí dụ lề áo. Câu tục ngữ: áo rách giữ lề) và luật. Theo thiển kiến cuả người viết, lề nơi đây có lẽ từ lễ, đọc trại ra, y hệt như phép trại ra từ pháp. Ngoài ra, ngay cả chữ lẽ như lẽ phải có thể cũng do sự đọc trại từ lễ (như chúng tôi sẽ bàn sau). Do đó, lề luật có lẽ là lễ luật. Khi những quan niệm nho học du nhập vào trong tư tưởng dân gian, người bình dân Việt thường áp dụng vào cuộc sống thường nhật, và dùng những thí dụ cụ thể để nói lên tầm quan trọng của chúng: áo rách giữ lề có nghĩa là, cho dù có nghèo tới đâu, thì vẫn phải giữ lễ giữ nghĩa. Đó là tinh thần cuả câu nói trong Mạnh Tử (Thiên Đằng Văn Công, hạ): “Phú qúy bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu” (Giầu có mà không bị nhục dục lôi cuốn, nghèo nàn nhưng không bị mua chuộc, uy quyền không thể áp bức được, như vậy mới là một người xứng đáng).
[7] Luận Ngữ, (Nhan Uyên) 12:11: “Tề Cảnh Công vấn chính ư khổng Tử, Khổng Tử đối viết, “Quân quân thần thần phụ phụ tử tử…” (Cảnh Công nước Tề hỏi Khổng Tử, Khổng Tử trả lời, nói rằng: “Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”)
[8] Đây là những chuẩn mực các sử gia Việt dùng để phê phán giới lãnh đạo hay chính giới trí thức. Cho dù Nguyễn Aùnh có công lao thống nhất sơn hà, vua vẫn bị chê bai là “bất trung”, “bất nghĩa” (tội cõng rắn cắn gà nhà). Dẫu Hồ Quý Ly có rất nhiều công trong việc cải cách, nhà Hồ vẫn bị coi thường vì cái tội “bất nghĩa” này. Giới tướng lãnh tham gia đảo chánh lật đổ chính phủ họ Ngô vẫn bị dân chúng khinh bỉ goị là “tướng mãnh” vì những tội “bất trung”, “bất tín”, “bất nghĩa” và “vô lễ” của họ, mặc dù họ ra sức bào chữa, hợp lý hóa hành động của mình như trường hợp Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính và nhất là Đỗ Mậu và Dương Văn Minh.
[9] Hay như ta thấy trong câu thơ châm biếm: “Nhà trống ba gian, một thầy một cô một chó cái. Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi.”