LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH THÁNH - Phần 12/35
Lm. Phaolô Ngô Đình Sĩ
--------------------------------
III. LỊCH SỬ DIỄN GIẢI KINH THÁNH
1. Diễn giải Kinh thánh của người Do thái thời Chúa Giê-su
Sau khi trở về từ bị giam cầm, người Do Thái, dưới sự lãnh đạo của Ét-ra, đã nhận thức được tầm quan trọng của sự vâng phục Lề luật, trong khuôn khổ của Giao ước, để duy trì sự tồn tại của Ít-ra-en: Nơ-khê-mi-a 8,3; 8,18; 10,29. Ét-ra là khuôn mẫu của các kinh sư, người dạy luật cho Ít-ra-en (Ét-ra 7,10). Việc giải thích Kinh thánh ngày càng trở thành vấn đề của các kinh sư. Mối quan tâm chính của họ là theo dõi sự tuân thủ chính xác các giới răn của Thiên Chúa. Điều này buộc họ phải làm rõ ý nghĩa và giới hạn của các yêu cầu thánh thiêng. Chúng ta có một ví dụ trong Nơ-khê-mi-a 13.
Mô-sê đã loại trừ Ammonite và Moabite khỏi cộng đồng Thiên Chúa, Nơ-khê-mi-a quyết định loại trừ tất cả các dân ngoại, bên ngoài Ít-ra-en và thậm chí cả phụ nữ nước ngoài.
Cùng một chương tương tự của Nơ-khê-mi-a cũng nhấn mạnh đến cần thiết phải tuân thủ nghiêm ngặt ngày Sa-bát. Lệnh Sa-bát đã giữ một vị trí lớn trong cuộc sống của Ít-ra-en: đó là một phong tục giúp tách biệt rõ ràng dân Ít-ra-en với các dân tộc láng giềng, do đó là một điểm quan trọng tạo sự thống nhất quốc gia.
Để gìn giữ sự tôn trọng ngày Sa-bát, các kinh sư đi đến việc xác định chi tiết những gì cho phép và bảo vệ vào ngày đó. Do đó, một truyền thống được thiết lập bên cạnh giới răn của Thiên Chúa. Mục đích của truyền thống này là gìn giữ các giới răn, bao quanh giới răn bằng một hàng rào. Nhưng từng chút một, truyền thống (vốn chỉ là một cách diễn giải nhân loại) cuối cùng đưa ra tầm quan trọng tương tự như giới răn ngày Sa-bát. Chúng ta có rất nhiều ví dụ trong Tin Mừng.
Các trường phái khác nhau tồn tại trong lòng Do Thái giáo. Hai bậc thầy vĩ đại của lề luật vào thời Chúa Giê-su là Hillel và Shammai. Ông Shammai là một nhà chú giải cứng nhắc và hình thức, trong khi đó Hilel chứng tỏ là một nhà chú giải linh hoạt và tự do hơn. Ông Gamaliel, thầy của Phao-lô thành Tarsus (xem Công vụ 5,34-39) là cháu trai của thầy Hillel.
2. Chúa Giê-su diễn giải Kinh thánh thế nào
Cũng như các ví dụ của các kinh sư, Chúa Giê-su đặt nền tảng giáo huấn của Ngài trên Kinh thánh. Ngài thường nhắc đến thẩm quyền của Môi-se, của các ngôn sứ hoặc của vua Đa-vít (Mt 4,4; Mc 11,17; 12,36; 10,6). Nhưng Ngài tự do thoát khỏi những truyền thống thêm vào lề luật (như ngày Sa-bát, Mc 2,23-27; 3,1-6, Gio-an 5,1-18; 9,1-41, v.v. ... hoặc như các nghi thức thanh tẩy, Mt 15,1-20, v.v.).
Thật vậy, Chúa Giêsu luôn tìm cách trở về với ý định chính của giới răn: Mc 2,27; 3,4; Mt 15,11 và 20; 19,4-6 v.v. ... Ngài cố gắng làm nổi bật mục đích của giới răn, để mặc khải giới răn trong tất cả các yêu cầu của chính nó: Mt 5,17-48. Ý định của giới răn không gắn liền với các từ, các chữ, mà gắn bó với tinh thần của lề luật. Đây là lý do tại sao Ngài tóm lược toàn bộ luật trong giới răn nhân đôi của tình yêu (Mt 22,37-40).
Chúa Giêsu diễn giải Cựu Ước để minh chứng sứ mệnh của chính Ngài được loan báo như thế nào. Ngài muốn giúp người nghe hiểu các hành động của Ngài và nhận ra nơi Ngài là Đấng Thiên Sai, như thánh ý của Thiên Chúa, chứ không phải như ý muốn mà con người tưởng tượng ra. Khi dựa vào Kinh thánh, Ngài mặc khải ý nghĩa và mục đích của sứ mệnh của Ngài: Lu-ca 4,16-20; 20,9-18; 20,41-44; 22,37; 24,25-27; Mt 12,38-42; 21,12-17; 26,31, v.v.
Trong khi các giáo sĩ Do thái thường bám vào những tranh luận về các từ và các chi tiết, Chúa Giêsu cố gắng làm nổi bật chính yếu của thánh ý Thiên Chúa, ý nghĩa sâu xa của chương trình của Thiên Chúa. Cuộc thảo luận của Chúa Giê-su với những người Sa-đu-sê-en trong Mt 22,23-33 là một ví dụ (hoặc Mt 15,3-9; 23,16-24).
3. Diễn giải Kinh thánh nơi các môn đệ của Chúa Giê-su
Kinh thánh Kitô giáo tiên khởi dĩ nhiên là Cựu Ước. Việc sử dụng chính của Kinh thánh được mô tả trong sách Công vụ cho thấy Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a được các ngôn sứ loan báo:
Ví dụ, Công vụ 17,2-3. 5. Các rao giảng của các Tông đồ qua bản văn của thánh sử Lu-ca, trích dẫn rất nhiều Cựu Ước: Công vụ 2,14-36; 3,11-26; 4,9-11; 8,26-35; 13,16-41. Dường như các Kitô hữu tiên khởi đã hình thành một bộ sưu tập các bản văn Cựu Ước để minh chứng rằng Chúa Giêsu là Đấng Mêsia Thiên Chúa đã hứa. Các trích dẫn xuất hiện thường xuyên hơn trong Tân Ước: Is 53; Thánh vịnh 118,22; 110,1; 16,8-11; Is 28,16; 59,20-21; Gr 31,31-34.
Tông đồ Phao-lô đã nhận được một đào tạo giáo dục dành cho giáo sĩ Do Thái. Cách Phao-lô trích dẫn Kinh thánh đôi khi làm chúng ta ngạc nhiên. Phao-lô thường sử dụng phương pháp diễn giải "dạng thức học”hoặc "kiểu hình học”(typologie). Nói cách khác, Thánh Phao-lô nhìn thấy trong một số sự kiện và nhân vật trong Cựu Ước là một trong "các loại”(các ví dụ, khuôn mẫu, tương đồng) của các biến cố của Giao ước mới hoặc con người của Chúa Kitô. Chẳng hạn, trích dẫn song song Adam-Ki-tô (Rm 5,12-21) ở đây Adam được gọi là "hình loại”của Đấng sẽ đến (câu 14) - hoặc song song giữa biến cố Xuất hành, tiếp theo sau việc lữ hành của Ít-ra-en trong sa mạc và sự cứu rỗi của các Kitô hữu, nhưng bị đe dọa bởi cám dỗ (1 Cr 10,1-11 - từ ngữ "thể loại”xuất hiện trong câu 6 và câu 11) - hoặc ví dụ về Áp-ra-ham, cha của những kẻ tin (Rm 4; Gl 3 và 4).
Trong thư gởi tín hữu Ga-lát 4,21-31, thánh Phao-lô nhìn thấy ở Sara và Hagar một phúng dụ (allegory) về hai giao ước - Giao ước với Ít-ra-en theo xác thịt và với Ít-ra-en theo thần trí (dân tộc của những kẻ tin). Phương pháp phúng dụ (allegory) chệch khỏi ý nghĩa lịch sử nhiều hơn là phương pháp "loại dạng thức”(typology). Phương pháp này cho phép nhìn thấy trong một sự kiện hoặc một nhân vật có một bài học ẩn dấu. Phương pháp phát hiện ra một ý nghĩa "thiêng liêng”bên cạnh ý nghĩa thực sự.
Thư gởi cho tín hữu Híp-ri thường được đặt song song Giao ước cũ với Giao ước mới, bản thân của Chúa Kitô và các nhân vật của Giao ước cũ (Mô-sê, thượng tế tối cao, v.v.) Melchisedek xuất hiện như một hình (loại, type) của Chúa Kitô.
4. Lịch sử diễn giải Kinh thánh Ki-tô giáo
Quan sát mở đầu
Bắt đầu từ thế kỷ thứ ba, có hai khuynh hướng đối lập với nhau trong Giáo hội: một là cách đọc phúng dụ Kinh Thánh, có trung tâm ở Alexandria và một trường phái lịch sử, có trung tâm ở Antioch. Alexandria, trước thời Chúa Kitô, đã là một trung tâm triết học người Do Thái, nơi đó phương pháp phúng dụ được áp dụng để thuyết phục các nhà triết học Hy Lạp về giá trị và chân lý của Do Thái giáo. Kinh thánh không còn được diễn giải theo nghĩa đen, nghĩa sát chữ, nhưng người ta tìm kiếm ở đó một ý nghĩa ẩn giấu. Chính như thế người ta thấy trong nhân vật Mô-sê một triết gia vượt trội hơn cả triết gia Platon. Sara, ví dụ, đại diện cho khôn ngoan Thiên Chúa, Hagar là khôn ngoan con người.
Các Kitô hữu miền Alexandria đã theo khuôn mẫu này. Nhà thần học vĩ đại Origen đã phân biệt ba cấp độ diễn giải:
1) Diễn giải lịch sử hoặc nghĩa sát chữ: ý nghĩa đầu tiên của bản văn là quan trọng;
2) Diễn giải đạo đức, qua đó người ta tìm cách rút ra một bài học đạo đức, một ví dụ về hành vi (do đó, khi Chúa Giêsu nhắc đến ví dụ của Đa-vít liên quan đến ngày Sa-bát, Mc 2,25-26;
3) Diễn giải thánh thiêng hoặc phúng dụ, tìm kiếm ý nghĩa sâu sắc, ẩn dấu đằng sau nghĩa đen. Ví dụ, ý nghĩa thiêng liêng của thành Giê-ri-cô sụp đổ trong sách Giô-suê, chính là sự sụp đổ của sự thờ hình tượng, thờ tà thần khi Chúa Giêsu đến. Một phương pháp diễn giải phúng dụ về dụ ngôn Samaritanô tốt lành là hình ảnh của quán trọ Giáo hội và trong rượu và dầu, là hình ảnh các bí tích.
Origen không phủ nhận giá trị lịch sử của Cựu Ước, nhưng giáo phụ nghĩ rằng những tường thuật mà thông điệp thiêng liêng không rõ ràng (như Nô-ê say rượu, những người phụ nữ và các nàng hầu của Gia-cốp, câu chuyện về Giu-đa và Tama , v.v.) chỉ có thể có trong Kinh thánh nếu chúng có ý nghĩa thiêng liêng ẩn giấu.
Các nhà thần học ở Antioch gắn bó hơn với nghĩa đen và nghĩa lịch sử. Phương pháp phúng dụ có vẻ nguy hiểm đối với họ, bởi vì phương pháp để lại một cánh đồng rộng mở cho những diễn giải cá nhân và tự do. Họ là những người đầu tiên bảo vệ một chú giải nghiêm túc, người ta gần như có thể nói là khoa học.
Nhưng, xét về tổng thể, phương pháp phúng dụ đã được sử dụng rộng rãi.
Để chống lại những kẻ dị giáo, nhiều nhà tư tưởng Kitô giáo đã tuyên bố rằng Kinh thánh chỉ có thể được diễn giải theo quy tắc đức tin được xác định bởi Giáo hội. Các Tông đồ đã nhận được từ Chúa Kitô chân lý của thông điệp Kitô giáo và truyền lại cho những người kế vị của họ trong Giáo hội. Đó là bước đi đầu tiên hướng đến Giáo hội Công giáo La Mã.
Một chút lịch sử
Như chúng ta đã nói trên đây, sự kiện Kitô hữu tiên khởi coi trọng Kinh Thánh có thể dễ nhận thấy qua việc nghiên cứu các bài giảng, phụng vụ, nhận xét và nghệ thuật của Kitô Hữu. Họ đồng ý về tính cách linh ứng của Kinh Thánh (tuy có sự bất đồng ý về tính cách quy điển của các sách) và coi Kinh Thánh là "công trình độc nhất của một Tác Giả độc nhất.”Trong những học giả Kinh Thánh vĩ đại của Kitô Giáo tiên khởi là Ambrôse, Giêrôme, Augustine, và ĐGH Grêgôriô Cả ở Tây Phương, trong khi ở Đông Phương có Athanasius, Gioan Kim Khẩu và các Giáo Phụ Cappadocian (Basil Cả, Grêgôriô Nazianzus, Grêgôriô ở Nyssa).
Trong khi một số giáo phụ, tỉ như, Melito ở Sardis, Clemente ở Alexandria, Origen, đưa ra các quy tắc để dẫn giải Kinh Thánh, trong thời kỳ tiên khởi này, tổng quát, các quy tắc vẫn còn uyển chuyển. Việc dẫn giải có tính cách ngụ ý của các văn bản thánh được chấp nhận một khi sự ngụ ý này hướng về Đức Tin Kitô Giáo và không thay đổi nhiều với Tông Truyền. Câu châm ngôn nổi tiếng của Vincent ở Lerins là quy tắc của thời ấy: quod ubique, quod semper, quod ab omnibus (điều [được dậy bảo] ở mọi nơi, luôn luôn, và bởi mọi người).
Chân lý của Kinh Thánh được hiểu theo nghĩa đen, có giá trị lịch sử thường được các Giáo Phụ mặc nhiên chấp nhận. Tuy nhiên, một vài ngoại lệ của điều này được thấy trong Học Phái Alexandria. Thí dụ, Origen dậy rằng các biến cố trong Cựu Ước không nhất thiết phải chính xác về lịch sử, nhưng được dùng như các câu chuyện để nói lên các chân lý có giá trị tinh thần. Trái lại, Học Phái Antiôkia tỉ như Gioan Kim Khẩu mạnh mẽ tẩy chay phương cách tiếp cận này, và duy trì tính cách xác thực lịch sử của Kinh Thánh.
Khi các thế kỷ trôi qua, sự quen thuộc tự nhiên với ngôn ngữ Kinh Thánh (tiếng Hy Lạp và cổ Do Thái) và các truyền khẩu tiên khởi giảm dần. Bởi đó, phát sinh nhu cầu cần có các quy tắc dẫn giải và chú thích. Từ từ, việc phát triển liên tục về nghệ thuật và khoa học của việc nghiên cứu Kinh Thánh đã đưa đến truyền thống Công Giáo về bốn ý nghĩa của Kinh Thánh.
Ý nghĩa đầu tiên là nghĩa đen (theo văn tự) mà theo T. Tôma Aquinas, là ý nghĩa mà tất cả các ý nghĩa khác phải dựa vào đó. Nghĩa đen thì đơn giản là ý nghĩa trực tiếp và đúng theo mặt chữ, tuy điều này có bao hàm phép ẩn dụ (tỉ như, Con của Sấm Sét vẫn là nghĩa đen tuy nó có tính cách ẩn dụ).
Ba ý nghĩa khác, ngụ ý, loại suy, và luân lý cùng hợp thành ý nghĩa tinh thần. Nghĩa ngụ ý chú ý đến ý nghĩa biểu tượng được phát sinh bởi chữ. Những hình ảnh tiên báo trong Cựu Ước và Tân Ước là thí dụ của ý nghĩa này. Nghĩa loại suy nhắm đến sự liên can của chữ với điều người Công Giáo gọi là "cánh chung;”có thể nói là sự chết, sự phán xét, thiên đường, và hỏa ngục. Sau cùng, nghĩa luân lý dậy chúng ta cách sống. Tính cách dậy bảo của bốn ý nghĩa này được tóm tắt trong bài thơ nổi tiếng thời trung cổ:
Littera geta docet, quid credas allegoria,
moralis quid agas, quo tendas anagogica.
Theo nghĩa bóng, câu này có thể lược dịch như sau: "văn tự dậy chúng ta về điều đã xảy ra; điều bạn phải tin được gọi là ngụ ý; điều bạn phải thi hành được gọi là nghĩa luân lý; ý nghĩa loại suy có liên quan đến chung cuộc đời bạn."
Việc nghiên cứu Kinh Thánh phát đạt trong suốt thời trung cổ, một thời đại mà thần học và nghiên cứu Kinh Thánh được coi là "cực điểm của kiến thức”và "hoàng hậu của khoa học.”Trong thời Trung Cổ, Giáo Hội Công Giáo duy trì và trao truyền lại Kinh Thánh. Người ta nói rằng nếu hai đan sĩ làm việc toàn thời gian thì phải mất bốn năm mới chép xong toàn bộ Kinh Thánh. Bởi đó, vì giá trị không thể tưởng được và vì không muốn bị mất cắp nên bộ Kinh Thánh đôi khi được giữ bằng giây xích trong nhà thờ và thư viện, chứ không phải vì Giáo Hội âm mưu muốn giữ làm của riêng không cho công chúng biết, như một vài người cáo buộc. Ngược lại, Giáo Hội đã làm mọi sự trong khả năng để phổ biến Kinh Thánh trong thời Trung Cổ cũng như giúp duy trì văn hóa và kiến thức của Tây Phương.
Thời đại này đề cao việc tìm kiếm sự thật ở bất cứ đâu. Do đó, không ngạc nhiên khi thấy trong thời này, các đại học, thư viện, và nghệ thuật và khoa học nở rộ. Việc nghiên cứu Kinh Thánh và lưu ý đến ngôn ngữ nguyên thủy đã bành trướng trong thời gian này. Tỉ như, Công Đồng Viena (1311) ra lệnh các đại học phải có môn cổ ngữ.
Có lẽ phong trào nổi tiếng trong thời Trung Cổ về nghiên cứu Kinh Thánh là Học Phái Kinh Viện. Các học giả vĩ đại của thời này, trong đó có Bernard ở Clairvaux, Albert Cả, Tôma Aquinas, và Bonaventura, tìm cách tổng hợp lý lẽ với đức tin. Học phái này nghiên cứu triết học và Luật Tự Nhiên trong ánh sáng lời Chúa. Thí dụ, Aquinas giải thích đức tin Kitô Giáo dưới ánh sáng hiểu biết của Aristotle với ý định chứng minh rằng Kitô Giáo là một đức tin hữu lý, và chân thật. Tuy nhiên, cũng có giá trị để nhận xét rằng Giáo Hội thận trọng chủ trương rằng bất kể giá trị của lý lẽ và triết học, cần có ơn sủng để đạt được đức tin, đức cậy, và đức ái. Đó là, người ta có thể lý luận để tìm ra sự thật qua các phương tiện tự nhiên, nhưng chỉ nhờ ơn siêu nhiên, người ta mới có thể tin và được cứu độ.
Thần học gia thời Trung Cổ dựa nhiều vào bài nhận định của các Giáo Phụ và họ thờ ơ với các cách dẫn giải mới và có sáng kiến. Các học giả tỉ như sử gia và thần học gia người Anh là Bede, Phê-rô Lombard, và Tôma Aquinas xuất bản các công trình là sự thu lượm các văn bản và ý kiến của các Giáo Phụ. Một học giả khác là thí dụ điển hình cho thời đại này khi ông viết, "Tốt hơn đừng mất thời giờ với các ý tưởng được cho là mới mẻ này, nhưng hãy ngập tràn với nguồn xưa cũ."[15]
Sự học hỏi Kinh Thánh cũng dựa nhiều vào ý nghĩa ngụ ý của Kinh Thánh. Thật vậy, trong con mắt nhiều người ngày nay, một số cách dẫn giải này dường như "giầu tưởng tuợng,”nếu không muốn nói là ngớ ngẩn. Mác-cô Holtz giải thích:
Nhờ bởi Hugh ở Victor (1090-1141), chúng ta được biết chiều dài của con tầu ông Nôe, 300 cubít, là dấu của Thánh Giá, vì con số 300 được tượng trưng là chữ "tau”(T) trong tiếng Hy Lạp, mà nó có hình dạng chữ thập. Rupert ở Deutz (1075-1129) nói cho chúng ta biết rằng câu trong sách Châm Ngôn (19,12), "Cơn giận của một ông vua thì giống như tiếng sư tử rống,”nói về Đức Kitô trên thập giá, vì sau đó Vua của các vua gào thét vào mặt Lũ Qủy. [16]
Chắc chắn, tối thiểu một số giải thích được đưa ra trong thời Trung Cổ có thể bị ngày nay gạt bỏ vì quá hăng say dùng đến ý nghĩa thiêng liêng. Tuy nhiên, nó cũng phản ánh sự tin tưởng sâu đậm của các thần học gia thời đại đó vào sự linh ứng của Kinh Thánh. Trái với sự chú giải tự do tân thời, họ có thể thấy Thiên Chúa là tác giả sau cùng của Kinh Thánh. Hậu quả là, ngay cả những câu trần tục nhất cũng thường được coi có giá trị thiêng liêng và đưa đến những giải thích có tính cách ngụ ý.
Trong thế kỷ 16, Giáo Hội phải đương đầu với những thử thách nghiêm trọng khi người Thổ Nhĩ Kỳ xâm lăng đến gần Vienna, và sự Cải Cách Tin Lành. Trên nhiều khía cạnh, Giáo Hội thấy tinh thần hăng say dần dà suy đồi kể từ thế kỷ 13. Các vấn đề này bao gồm sự thối nát trong hàng giáo sĩ, không đủ người dậy giáo lý cho giáo dân, và cuộc Đại Ly Khai thật tai tiếng, trong thời gian này hai giáo hoàng tự cho mình là đại diện hợp pháp của Thánh Phêrô-một ở Rôma và một ở Avignon, Pháp.
Giáo Hội đáp ứng với cuộc Cải Cách Tin Lành qua Công Đồng Trentô. Các giáo phụ của công đồng nhìn nhận lỗi lầm của Giáo Hội Công Giáo trong sự suy thoái luân lý và giảng dậy trong đời sống Kitô Hữu. Tuy nhiên, Công Đồng đã nhắc lại các học thuyết truyền thống để trả lời cho những cách chú giải Kinh Thánh mới của Tin Lành. Bộ Vulgate được tái xác nhận là không có sai lầm gì về đức tin và luân lý. Tính cách quy điển truyền thống của Vulgate cũng được duy trì, bao gồm những thư quy của Cựu Ước (được người Tin Lành gọi là "ngụy thư", họ tẩy chay những sách này không thuộc về chính lục). Quy điển này thường được Giáo Hội chấp nhận trong nhiều thế kỷ như được thấy hiển nhiên trong Công Đồng Hippo (393) và Carthage (397), và các công đồng khác. Tuy nhiên, Công Đồng Trentô không có lý do gì để hồ nghi, và mạnh mẽ dứt khoát xác định quy điển.
Trong Giáo Hội thời Cải Cách, việc nghiên cứu Kinh Thánh lại phát triển. Các Tư tế dòng Tên như Phê-rô Canisius, Robert Bellarmine, và Francisco Suarez là những thần học gia lỗi lạc nhất. Việc học ngôn ngữ nguyên thủy lại tiếp tục gia tăng. Tỉ như, Thomas More khẳng định, "Làm thế nào có thể biết thần học nếu không biết tiếng cổ Do Thái và Hy Lạp và Latinh?"
Việc tẩy chay quyền bính Giáo Hội bùng nổ trong thời Cải Cách đã mở cửa cho các phương cách tiếp cận có tính cách phê phán và hoài nghi đối với Kinh Thánh. Trong giai đoạn Hậu Khai Sáng, trong các thế kỷ 17 và 18, các học giả Kinh Thánh Tin Lành tự do bắt đầu tẩy chay tính cách không thể sai lầm của văn tự trong Kinh Thánh. Trong thế kỷ 19 phương pháp phê bình-lịch sử đối với Kinh Thánh chiếm ưu thế, nó nghiên cứu Kinh Thánh trong ánh sáng của các tiến trình lịch sử mà trong đó được viết xuống. Các học giả phái phê bình-lịch sử chịu ảnh hưởng của Hegel và các nhà tư tưởng hiện đại khác. Hậu quả là họ tìm hiểu Kinh Thánh với những phỏng đoán duy lý và tự nhiên, theo đó bất cứ biến cố siêu nhiên nào trong Kinh Thánh đều được giải thích là sản phẩm của thần thoại.
Các phương pháp của những người duy lý bị Giáo Hội lên án khi lịch sử bước sang đầu thế kỷ 20. Thí dụ, thông điệp Providentissimus Deus (1893) của ĐGH Lêô XIII mạnh mẽ tẩy chay thái độ từ chối chân lý và từ chối tính cách linh ứng của Kinh Thánh, ngài coi đó là lạc giáo và thiếu nền tảng đức tin, trong khi khuyến khích người Công Giáo hãy nghiên cứu. Năm 1943, ĐGH Piô XII viết thông điệp Divino Afflante Spiritu, để kỷ niệm năm mươi năm ngày ban hành thông điệp Providentissimus Deus. Đức thánh cha viết rằng khoa phê bình văn học đã phát triển đến mức nó có thể được dùng để nghiên cứu Kinh Thánh một cách an toàn mà không phương hại đến ý nghĩa đích thật của Kinh Thánh. Người cũng khuyến khích các học giả Kinh Thánh hãy theo sát các cuộc nghiên cứu về khảo cổ học, văn hóa, và lịch sử để hiểu biết hơn về văn tự của các văn gia trong Kinh Thánh.
Trong các văn kiện của Công Đồng Vatican II, Dei Verbum (Lời Chúa) là một trong những văn bản hay nhất. Văn kiện này tóm lược lập trường của Giáo Hội Công Giáo về sự Mặc Khải của Thiên Chúa. Nó tái khẳng định kho báu vĩ đại mà Kitô Hữu đang có trong Kinh Thánh, giá trị không thể lường được của Kinh Thánh để dậy bảo chân lý và giúp chúng ta đi theo Chúa Kitô. Nó cũng dậy rằng các hình thức văn chương, các khung cảnh lịch sử, và các "yếu tố nhân bản”khác phải được lưu ý trong việc học hỏi Kinh Thánh. Ảnh hưởng mạnh trong việc hình thành Dei Verbum là Sancta Mater Ecclesia (Mẹ Giáo Hội Thánh Thiện), được công bố bởi Ủy Ban Kinh Thánh năm 1964. Tài liệu này đưa ra sự hiểu biết của Công Giáo về các Phúc Âm, nhấn mạnh đến tính cách lịch sử và sự liên quan với các truyền khẩu của tông đồ.
Buồn thay, chúng ta phải than thở rằng trong thời hậu công đồng Vatican II, nhiều người trong Giáo Hội đã làm sái lệch ý định đích thực của công đồng để cổ vũ nhiều điều thường bị Giáo Hội lên án công khai. Tỉ như việc giải thích các phép lạ trong Kinh Thánh chỉ là thần thoại và chấp nhận phương cách phê bình-lịch sử một cách không hạn chế (hoàn toàn bỏ qua thông điệp Providentissimus Deus, Divino Afflante Spiritu, và toàn thể truyền thống dẫn giải Kinh Thánh của Giáo Hội). Có rất nhiều câu chuyện của các giáo dân bị bối rối khi nghe giảng rằng ma qủy chỉ là "sự giải thích những xáo trộn tâm lý của thế kỷ thứ nhất,”hoặc phép lạ của Chúa Giêsu là huyền thoại được cộng đồng Kitô Hữu tiên khởi dựng nên sau này.
ĐGH Gioan Phaolô II cùng với ĐHY Ratzinger (khi còn là Trưởng Thánh Bộ Tín Lý) từ từ nhưng bền bỉ đưa giáo hội trở về con đường nguyên thủy được các Giáo Phụ của Công Đồng Vatican II đề ra. Sách Giáo Lý Công Giáo mới, được phát hành năm 1994, chứa đựng một đoạn tuyệt diệu về Kinh Thánh. Sách Giáo Lý trình bầy học thuyết chính thống của Công Giáo và có một giá trị vô giá để giúp dẫn dắt Giáo Hội trong những năm sắp tới. Ngoài ra sách này còn có một đoạn phi thường về sự mặc khải của Thiên Chúa, trong đó diễn tả bốn ý nghĩa của Kinh Thánh. Hành động này được nhiều người giải thích: rõ ràng là Vatican xác nhận giá trị của quan điểm truyền thống về Kinh Thánh.
Một văn kiện then chốt khác là "The Interpretation of the Bible in the Church”(1993) của Ủy Ban Kinh Thánh. Trong khi văn kiện này duy trì việc sử dụng phương cách phê bình-lịch sử đối với Kinh Thánh như một phương tiện để hiểu biết ý nghĩa Kinh Thánh chính xác hơn trong ánh sáng của khung cảnh lịch sử, văn hóa mà nó được viết ra, tài liệu này cảnh giác những nguy hiểm có thể xảy ra từ phương pháp này, nhất là khi nó được dùng để loại trừ sự dẫn giải có tính cách thiêng liêng. Tài liệu này tái xác nhận rằng sự dẫn giải Kinh Thánh không chỉ là công việc của các học giả. Đúng ra, Kinh Thánh là lời tích cực, sống động của Thiên Chúa, chủ yếu sống trong tâm hồn của các phần tử Giáo Hội.
Chắc chắn sẽ là điều ngây thờ và quá lạc quan khi nói rằng Giáo Hội Công Giáo đã thoát ra khỏi tình trạng buồn chán của giai đoạn hậu công đồng. Tuy nhiên, người tín hữu Công Giáo nhìn đến tương lai với đầy hy vọng, tin vào quan điểm của ĐGH Gioan Phaolô II rằng Giáo Hội đang có sự quân bình ở đầu một mùa xuân mới-một mùa hoa mà chắc chắn bao gồm sự nhấn mạnh đến việc canh tân học hỏi Kinh Thánh trong đời sống Giáo Hội.
------------------------
---Còn tiếp---