Ngày tháng: 21/12/2024
Đang truy cập: 41

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH THÁNH - Phần 16/35 - Lm. Phaolô Ngô Đình Sĩ

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH THÁNH - Phần 16/35

Lm. Phaolô Ngô Đình Sĩ

--------------------------------

III. CÁC SÁCH KHÔN NGOAN

Trong Sách Thánh Cựu Ước của Hội Thánh Công Giáo, sau phần các sách Lịch Sử, có bảy cuốn thuộc thể loại giáo huấn (cũng gọi là các sách khôn ngoan).

Mục lục của Kinh thánh thường phân loại các sách dưới mục "Các sách thi ca", sách Gióp, Thánh vịnh, Châm ngôn, Giảng viên và sách Diễm ca. Phần lớn của những cuốn sách này, thực sự, ở dạng thơ. Nhưng điều này không đúng với lời mở đầu và kết luận của sách Gióp, cũng không đúng với sách Giảng viên.

Đôi khi chúng ta thích nói về "các sách khôn ngoan", nghĩa là nói về "minh triết". Người khôn ngoan là người áp dụng vào cuộc sống của mình  các chân lý vĩ đại mà Thiên Chúa đã mặc khải cho dân tộc của ngài. Người khôn ngoan là người phản ánh những vấn đề của cuộc sống con người. Gióp, Châm ngôn, Giảng viên là một phần không thể chối cãi của "Văn học khôn ngoan". Nhưng đây không phải là trường hợp của hầu hết các Thánh vịnh, mà là những tác phẩm đạo đức. Tuy nhiên, một số Thánh vịnh như Tv 1, 37, 73 có nội dung tương tự như các sách khôn ngoan. Chúng ta từ chối đưa ra một tựa đề chung áp dụng cho tất cả những cuốn sách này. Chúng ta hãy nhớ rằng các sách này là một phần của "bản văn khác”của thư quy Kinh thánh tiếng Do Thái.

Dân tộc nào cũng biết tích luỹ và truyền đạt kinh nghiệm sống của mình cho các thế hệ đến sau dưới những hình thức đơn giản dễ nhớ, cũng như bằng những thiên sách suy lý về ý nghĩa cuộc sống và cách sống ở đời. Dân Chúa trong Cựu Ước cũng biết thu thập sự "khôn ngoan”của các dân chung quanh và biết tự tìm ra những kinh nghiệm. Có điều đặc biệt là kinh nghiệm sống của Dân Chúa là một kinh nghiệm tôn giáo. Từ chỗ cảm nghiệm về Thiên Chúa hiện diện và hoạt động trong lịch sử từ ban đầu, họ đi tìm cảm nghiệm sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Trào lưu văn học này đã có từ lâu trong lịch sử Ít-ra-en. Nhưng các sách khôn ngoan chúng ta có trong Kinh Thánh hiện nay đều được biên soạn thời sau lưu đày Ba-by-lon.

Tóm lại, trong bảy cuốn sách được xếp vào phần này, có năm cuốn thực sự thuộc thể loại "khôn ngoan": Gióp, Châm ngôn, Giảng viên, Khôn ngoan và Huấn ca. Còn Thánh vịnh và Diễm ca là hai tác phẩm thi ca.

1. Sách Gióp

Là một vở kịch bằng thơ, có lẽ xây dựng trên một cốt truyện có trước bằng văn xuôi. Chủ đề là vấn đề đau khổ. Tác phẩm phản kháng quan niệm cổ điển về thưởng phạt, nhưng chưa đưa ra một giải đáp cụ thể, mà chỉ đặt người ta đối diện với mầu nhiệm của quyền năng Thiên Chúa và đưa đến thái độ im lặng tôn thờ.

Kiệt tác văn học Do Thái này là một bài thơ dài đóng khung trong một tường thuật ngắn (1 và 2 sau đó 42,7-17) kể về sự bất hạnh của Gióp, sau đó ông tìm thấy lại hạnh phúc. Bài thơ bao gồm một loạt các cuộc đối thoại giữa ông Gióp và bạn bè của ông. Nhưng đó là một cuộc đối thoại của người điếc; Vì vậy, Gióp kết thúc việc đưa ra than phiền của mình nói với Thiên Chúa (chương 29,31). Sau đó, một nhân vật khác, Elihu, đã can thiệp (32-37). Nhưng chính Chúa là người có lời cuối cùng (38-41); ông Gióp chỉ có thể cúi đầu khuất phục (chương 42,1-6).

Sách Gióp đề cập đến một trong những vấn đề cấp bách nhất của cuộc sống con người, đó là sự đau khổ và đặc biệt là sự đau khổ không đáng có. Nếu Thiên Chúa là Đấng công chính, tại sao Ngài cho phép quá nhiều đau khổ bất công? (3,20-26)

Nhưng có một câu hỏi khác, cũng quan trọng không kém, và đó là: có thể phục vụ Thiên Chúa vì tình yêu và không chỉ đơn giản là vì lợi ích? Nhìn thấy Gióp, một người công chính và ngoan đạo, đầy những điều tốt đẹp, Sa-tan hỏi: "Có phải vì Gióp không phục vụ Thiên Chúa không?” (1,10-12). Ông sẽ tiếp tục yêu Ngài trong đau khổ và nghèo khổ? Chúa đã chấp nhận rằng chó Sa-tan thử thách Gióp. Vì vậy, ở đây ông Gióp là người mất tất cả. Ông ấy sẽ phản ứng thế nào? Nếu ông nguyền rủa Thiên Chúa, chính Satan có lý: Người ta thờ phượng Thiên Chúa chỉ vì lợi ích. Đức tin là sự tính toán và không phải tình yêu.

Ba người bạn của Gióp muốn thuyết phục anh rằng đau khổ luôn là một hình phạt cho tội lỗi. Nếu Gióp đau khổ, ông đã phạm tội. Ông Gióp từ chối lời giải thích này, đó là suy nghĩ của những người đạo đức cho mình có thái độ tốt. Ông Gióp không làm gì mà đáng bị trừng phạt như vậy. Ông không hiểu. Chỉ Thiên Chúa mới có thể trả lời. Và cuối cùng, Chúa lên tiếng, không trả lời cho các câu hỏi của Gióp, nhưng mặc khải sự toàn năng của Ngài. Thế thì Gióp im lặng: đủ để ông biết rằng Chúa đang ở đó. Ngay cả trong bất hạnh, Gióp cũng không quay lưng lại với Chúa. Satan đã thua cược. Do đó, Thiên Chúa có thể tự do ban cho Gióp sự thịnh vượng của Ngài.

2. Sách Thánh vịnh

Là bộ sưu tập thánh ca gồm những bài ca vịnh được sáng tác ở nhiều thời đại khác nhau, từ thời vua Ða-vít đến thế kỷ III trước CN. Trước thời lưu đày đã có những bộ sưu tập các thánh vịnh để dùng trong phụng vụ ở đền thờ. Sau lưu đày, các bộ sưu tập này lại có thêm những tác phẩm mới để dùng trong đền thờ mới. Ðây là kho tàng kinh nguyện của dân Chúa trong Cựu Ước cũng như trong Tân Ước. Mọi tình huống, mọi tâm tình của con người được diễn tả, bộc bạch trước mặt Thiên Chúa với lòng đơn sơ, dạn dĩ, tin tưởng: cảm tạ, ngợi khen, thống hối, ai oán, than van, vui, buồn, chất vấn Thiên Chúa và để cho Thiên Chúa chất vấn, khẩn cầu. Hội Thánh Công Giáo sử dụng các Thánh vịng trong các giờ kinh phụng vụ và phụng vụ Lời Chúa. Có thể xếp theo thể loại: tụng ca, vương triều, khẩn cầu, tạ ơn, hành hương, giáo huấn.

Trong các Thánh vịnh, họ là những con người nói với Thiên Chúa, và không phải là Thiên Chúa nói với con người. Tuy nhiên, những lời cầu nguyện và bài thánh ca này cũng là một Lời của Thiên Chúa cho chúng ta. Các Thánh vịnh không chỉ là một câu trả lời cho thông điệp của Thiên Chúa, mà chính Ngài là người đã linh hứng để dạy chúng ta ca ngợi và cầu nguyện.

Từ Thánh vịnh (Psaume) xuất phát từ một nhạc cụ (psaltérion) đi kèm với tiếng hát hoặc đọc những bài thơ này. Tựa đề tiếng Do Thái, Tchillim, có nghĩa là "bài ca". Nhiều thánh vịnh thực sự là những bài thánh ca, mặc dù những bài khác là những lời cầu nguyện cá nhân. Người ta đã nói rằng các Thánh vịnh là bài thánh ca của đền thờ thứ hai của Giê-ru-sa-lem (sau thời lưu đày). Đúng là sau khi trở về từ nơi lưu đày, bộ Thánh vịnh được hình thành. Nhưng nhiều thánh vịnh đã cũ. Rất nhiều trong số đó được quy cho Đa-vít. Đa-vít là một nhà thơ và nhạc sĩ (1 Sm 16,15-23, 2 Sm 1,19-26 và 3,33-34). Ông đã sáng tác nhiều thánh vịnh - đến mức tên của ông đôi khi được sử dụng để chỉ toàn bộ bộ sưu tập. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tựa đề "của Đa-vít”cũng có thể được dịch là "cho Đa-vít", để một số thánh vịnh có thể được viết bởi những người khác và dành riêng cho Đa-vít. Những cái tên khác xuất hiện trong số các tựa đề như Asaph, các con của Korah, v.v.

Kinh thánh chứa rất nhiều thánh vịnh, để tất cả các tín hữu có thể tìm thấy những lời cầu nguyện mà đức tin của họ được bày tỏ. Tuy nhiên, chúng ta có thể phân biệt ba thể loại thánh vịnh chính (nhưng không phải tất cả các thánh vịnh đều thuộc loại này, vì sự đa dạng của chúng quá lớn).

1) Các bài thánh ca ca ngợi (ví dụ: thánh vịnh 8, 19, 33, 95 đến 100, 103 đến 106, 145 đến 150), bao gồm một lời khích lệ ca ngợi Thiên Chúa (từ đó xuất phát từ "Alleluia", ca ngợi Thiên Chúa), tiếp theo là những lý do cho lời khen ngợi này: công trình Thiên Chúa Tạo Hóa, lòng thiện hảo của Ngài đối với Ít-ra-en, Sion và Đền thờ (48), triều đại của Thiên Chúa (96 đến 98>, v.v ... Đây là những bài thánh ca được hát trong phụng vụ). Chúng ta có thể xếp vào đây "thánh vịnh  các cấp độ”(120 đến 134), được hát bởi những người hành hương đến Giê-ru-sa-lem.

2) Những lời nguyện xin, trong đó các tín hữu dâng lên cho Thiên Chúa những than vãn của họ, tiếng khóc đau khổ của họ, nhưng cũng là biểu hiện đức tin của họ. Sự đau khổ của các tín hữu có thể đến từ kẻ thù của họ (được mô tả bằng thuật ngữ tượng hình đến nỗi khó có thể trình bày lại tình huống của thánh vịnh), những kẻ độc ác và những kẻ dối trá (3, 5, 7, 13, 22, 35, 56, 70, v.v.), của bệnh tật (38, 88); lưu đày (63), nhưng cũng về tội lỗi của họ (6, 51, 130, 143). Những lời cầu xin khác không phải là cá nhân, mà là tập thể. Đó là sự đau khổ con người được trình bày cho Thiên Chúa (74, 79, 83, 85, 106, 137), vì chiến tranh, lưu đày đến Babylon, sự khốn khổ của những người trở về, v.v ...

Các thánh vịnh cầu khẩn thường kết thúc bằng một lời tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa và sự chắc chắn được nhậm lời.

3) Những lời cầu nguyện tạ ơn, nơi đó đau khổ của tín hữu chỉ được đề cập như một cơ hội để tạ ơn Thiên Chúa (18, 21, 30, 34, 65-68, 116, 118, v.v.)

Các thánh vịnh khác bao gồm những thể loại trong đó hai thể loại được trộn lẫn (25, 27, 89) và suy gẫm (hoặc thánh vịnh khôn ngoan) (1, 112, 119, 127).

Chúng ta dành một vị trí cho các thánh vịnh liên quan đến Thiên sai. Đầu tiên là các thánh vịnh vương quốc, những lời cầu nguyện cho nhà vua (đấng được xức dầu hoặc Đấng Thiên sai). Một số được sáng tác trong những thời vương quốc, một số khác sau đó. Chúng luôn được hát trong viễn cảnh của lời hứa dành cho Đa-vít và hậu duệ ông (2 Sm 7,12-16), do đó bày tỏ niềm cậy trông của Ít-ra-en. Thiên Chúa sẽ ban cho dân của Ngài vị vua đã hứa sẽ trị vì trong sự công chính (2; 20; 21; 72; 110). Chúa Giêsu đã áp dụng cho chính mình những lời của nhiều thánh vịnh này. Nhưng Ngài cũng đề cập đến các thánh vịnh khác (22,2; 31,6). Ngài tự nhận mình đồng dạng với những người đau khổ. Ngài đã cầu nguyện bởi vì Ngài lấy vị trí của họ trước mặt Thiên Chúa.

 3. Sách Châm ngôn

Có nhiều bộ sưu tập châm ngôn: 10 - 22,16 và 25-29 (châm ngôn của Sa-lô-môn); 22,17 - 24,22 (lời của những người khôn ngoan); 30,1-14 (lời của A-gua); 30,15-33 (châm ngôn theo con số); 31,1-9 (lời của Lơ-mu-ên). Chín chương đầu là phần dẫn nhập: cha dạy con (1-7) và chính sự khôn ngoan lên tiếng (8-9). Cuốn sách như hiện nay có từ thế kỷ V trước CN. Cuốn sách được hình thành qua nhiều thế kỷ, nên cần lưu ý đến sự phát triển về tư tưởng.

Cuốn sách này là một thu thập của một số bộ sưu tập các châm ngôn (mashal trong tiếng Do Thái,  so sánh) và suy ngẫm về sự khôn ngoan và cuộc sống. Đây là loại văn học được gọi là sapiential.

Chúng ta có thể phân biệt:

a) Dẫn nhập. c. 1 đến 9. Giá trị của khôn ngoan. Khuyến nghị từ một người cha cho con trai của mình và can thiệp của sự khôn ngoan.

b) 10,1 đến 22,16: châm ngôn của Salomon.

c) 22,17-24,34: những lời của bậc khôn ngoan.

d) 25 đến 29: bộ sưu tập của người thuộc Ezekias.

e) 30: châm ngôn của Agur.

f) 31. Những châm ngôn của Lemuel. Bài thơ: Ca tụng người phụ nữ đức hạnh.

- Đối với Kinh thánh, Salomon là một "Hiền nhân”mẫu. Nhiều châm ngôn của ông đã được bảo tồn. Những châm ngôn khác đã được thêm vào để tạo thành bộ sưu tập như chúng ta biết, một số có thể định niên đại vào thời của triều đại của Ezekias, một số khác sau thời lưu đày.

- Những lời khuyên cho đời sống thực tế chứa trong cuốn sách này có vẻ hơi thô thiển. Những lời khuyên không chỉ diễn đạt sự thận trọng của con người, chúng mời con người sống trong kính sợ (nghĩa là tôn trọng) Thiên Chúa 1,7). Con người có thể là người tạo ra hạnh phúc hay bất hạnh của mình, tùy theo họ khôn ngoan hay điên rồ: 1,20-33; 3,21-35, v.v ... Sống theo khôn ngoan là sống theo Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã tạo ra thế giới bằng sự khôn ngoan của Ngài (8,22-31) và Ngài mặc khải sự khôn ngoan cho con người, để họ ghét cái ác và thành công trong cuộc sống của họ.

4. Sách Giảng viên

Ðược biên soạn ở thế kỷ III trước CN, nhưng mạo xưng là của vua Sa-lô-môn. Tác giả suy tư khắc khoải về ý nghĩa cuộc sống: tất cả là phù vân. Vậy thì sống để làm gì? Sau cuộc sống này còn gì tồn tại? Phản kháng những quan niệm cũ về thưởng phạt (như sách Gióp), nhưng cũng không đưa ra được giải đáp nào hơn là sự khiêm tốn vâng phục Thiên Chúa và tinh thần "thoát tục". Nỗi khắc khoải này Chúa Giêsu sẽ trả lời dứt khoát.

Tựa đề tiếng Híp-ri của sách này là "Qoheleth": người đứng nói trong một hội đồng, nhà thuyết giảng. Tác giả tự giới thiệu mình là "con trai của vua Đa-vít, vua ở Giê-ru-sa-lem", điều này cho chúng ta nghĩ đến vua Salomon, nhưng có thể áp dụng cho tất cả các vị vua của dòng dõi Đa-vít.

Đó là cuốn sách của một người đã sống rất nhiều và phơi bày trần trụi sự giả trá của con người để đảm bảo một hạnh phúc lâu dài ở đây: sự giàu có, công việc, bục giảng tốt, ngay cả sự khôn ngoan, tất cả điều này là phù vân (1,2).

Tất cả những niềm vui của trái đất là nhất thời và chịu sự phán xét của Thiên Chúa (12,1-9; 12, 15-16). Thiên Chúa không cấm con người tận hưởng cuộc sống (9,7-10; 11,7-8), với điều kiện họ không tìm cách xây dựng hạnh phúc của mình trên gió.

5. Sách Diễm ca

Ðược soạn vào thời sau lưu đày (thế kỷ V-IV trước CN). Sách gồm năm bài tình ca diễn tả mối tình giữa Chàng và Nàng. Người Do-thái vẫn coi đây là bài ca tuyệt vời diễn tả mối tình tuyệt vời giữa Thiên Chúa và Dân được tuyển chọn. Hội Thánh hiểu về mối tình giữa Chúa Ki-tô và Hội Thánh; các giáo phụ, các nhà thần bí hiểu về mối tình giữa Chúa Ki-tô và mỗi tâm hồn.

Tựa đề có nghĩa là: "Bài hát hay nhất trong số các bài hát”(trong số những bài của Salomon: 1 V 4,32). Đây là một bài thơ tình yêu cháy bỏng. Người Do Thái ngần ngại đưa nó vào thư quy Kinh thánh, vì các lời thơ quá trần tục (không nói về Thiên Chúa) và thậm chí còn gợi dục tình. Sách đã được giải thích theo cách phúng dụ và cho thấy một câu chuyện ngụ ngôn về tình yêu huyền nhiệm của Chúa Kitô và Giáo hội của Ngài. Tuy nhiên, người ta có thể nghĩ rằng ý nghĩa đầu tiên của nhà thơ này là bài hát tình yêu của một người đàn ông và một người phụ nữ, một tình yêu mà Thiên Chúa muốn tạo ra người đàn ông và người phụ nữ và chúc phúc cho cuộc hôn nhân. Chính vì sách có giá trị trong chính nó và tình yêu này có thể là một câu chuyện ngụ ngôn về tình yêu của Thiên Chúa và dân tộc của Ngài.

6. Sách Khôn ngoan

Ðược biên soạn ở thế kỷ thứ I trước CN, nhưng mạo xưng là của vua Sa-lô-môn. Tác giả sống trong môi trường văn hoá Hy-lạp ở A-lê-xan-ri-a bên Ai-cập. Cuốn sách muốn chống lại sức cuốn hút của văn hoá Hy-lạp đang làm cho nhiều người Do-thái bị lung lạc bằng cách đề cao sự khôn ngoan của Thiên Chúa bộc lộ trong số phận của mỗi con người và trong lịch sử Dân Chúa.

7. Sách Huấn ca

Do Ben Xi-ra viết bằng tiếng Híp-ri vào khoảng 190-180 trước CN tại đất Do-thái, rồi cháu nội của ông dịch ra tiếng Hy-lạp khoảng năm 132 trước CN tại Ai-cập. Cuốn sách gồm một bộ sưu tập những lời khôn ngoan về rất nhiều đề tài (1-42); chiêm ngắm vinh quang của Thiên Chúa trong thiên nhiên (2-43) và trong lịch sử Ít-ra-en (44-50); bài ca tán tạ (51,1-12); ca tụng việc tìm kiếm sự khôn ngoan (51, 13-30).

------------------------

---Còn tiếp---

zalo
zalo