Ngày tháng: 22/12/2024
Đang truy cập: 54

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH THÁNH - Phần 19/35 - Lm. Phaolô Ngô Đình Sĩ

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH THÁNH - Phần 19/35

Lm. Phaolô Ngô Đình Sĩ

--------------------------------

II. CUỘC CHINH PHỤC ĐẤT HỨA

Bằng chứng khảo cổ cho thấy rằng các bức tường thành Jericho đã đổ rất lâu trước khi người Ít-ra-en trở về. Một số học giả đặt câu hỏi cuộc tấn công quân sự của người Do Thái như mô tả ở trên có thực sự xảy ra hay không, và tin rằng người Do Thái đã mất tới trên 2 thế kỷ để xâm nhập Canaan. Những lời kể về cuộc chinh phục Canaan của Joshua trong các Sách Dân số (The Book of Numbers – cuốn thứ 4 trong Kinh Thánh Hebrew), Sách Joshua (The Book of Joshua – cuốn thứ 6 trong Kinh Thánh Hebrew), và Sách Thủ Lĩnh (The Book of Judges – cuốn thứ 7 trong Kinh Thánh Hebrew) cho thấy những bất đồng.

Tuy nhiên những hình ảnh trong Kinh Thánh cũng có những giá trị nhất định. Những khai quật cho thấy rằng những thành phố của Canaan như Lachish, Kiryat-Sepher và Eglon ở phía nam, Bethel ở giữa, và Hazor, một thành phố ở cực bắc, tất cả đều bị phá hủy vào cuối thế kỷ 13 TCN. Các bằng chứng khác khẳng định rằng cuộc tấn công vùng đồi núi Canaan đã xảy ra bắt đầu từ phía đông sang phía tây là ăn khớp với câu chuyện trong Kinh Thánh.

Đền thờ tại Shechem, một thành phố của Canaan, nơi mà Abraham được Thiên Chúa hứa cho Canaan một thiên niên kỷ trước, không có dấu hiệu bị phá hủy. Điều này nhất quán với khẳng định trong Sách Joshua rằng người Do Thái không bị cản trở trong cuộc tấn công ở đó. Xâu chuỗi tất cả những bằng chứng từ khảo cổ, các nguồn Kinh Thánh và địa chính trị của thời gian đó, chúng ta có thể dựng lại câu chuyện như sau.

Người Do Thái xuất hiện từ Sinai và đi vào khu vực Transjordan, chuẩn bị tiến vào Canaan từ phía đông. Họ trang bị vũ khí nhẹ và mệt mỏi sau 40 năm trong sa mạc. Cuộc tấn công vào các thành phố được phòng thủ kiên cố của Canaan dường như bị thất bại. Thêm nữa, người Canaan tổ chức quân đội theo kiểu tập đoàn quân (field army), vì thế các trận đánh đối diện trực tiếp trên chiến trường theo kiểu qui ước của người Do Thái không mang lại kết quả.

Do vậy, người Do Thái thay đổi chiến thuật sang chiến tranh du kích. Họ lấy được các thành phố Bethel, Ai và Gibeah bằng cách giả vờ rút lui và gài gián điệp vào thành Jericho trước khi bao vây. Thông thường người Do Thái sử dụng phương thức ngoại giao để chia rẽ các dân tộc khác nhau của Canaan. Thí dụ như họ lập được hiệp ước với người Hivites của thành phố cổ Gibeon và các thành phố lân cận, giúp họ phòng thủ khi bị bốn thành bang (city-states) của Canaan tấn công.

1. Các đợt tấn công

Có thể chia các cuộc tấn công của người Do Thái thành hai đợt. Đợt tấn công thứ nhất do các bộ tộc Rachel thực hiện (Rachel là tên người vợ chính của Jacob), dưới sự lãnh đạo của Ephraim và Manasseh thuộc gia đình Joseph (Joseph là con đầu của Jacob). Họ tiến quân qua các vương quốc Moab và Edom của Transjordan. Sau khi vượt qua sông Jordan và lấy được Jericho, họ trèo lên dãy núi và vượt qua ngọn Ephraim. Từ đó tỏa ra theo các hướng khác nhau.

Đợt tấn công thứ hai là của thế hệ tiếp theo. Các bộ tộc Leah (Leah là tên của người vợ thứ của Jacob) do Giu-đa lãnh đạo (Giu-đa là con thứ hai của Jacob). Sau khi đánh bại người Amorites, họ tiến vào Canaan về phía bắc của Jericho và tiếp tục di chuyển về hướng dãy núi Judaean Hills và vùng đồng bằng Shefelah Plain gần bờ biển. Trong khi đó, các thị tộc không phải Do Thái nhưng có quan hệ với Giu-đa như Calebites, Kenites, và Kenizzites giúp đỡ họ chiếm Hebron và Sa mạc Negev.

Sách Joshua nói rằng người Do Thái tiêu diệt 12 thành phố pháo đài, nhưng thừa nhận rằng còn lâu mới có thể khống chế toàn bộ khu vực. Sau những thắng lợi ban đầu, tình thế bị đảo ngược và người Do Thái bị đẩy ra khỏi các đồng bằng ven biển vào vùng đồi núi khô cằn.

2. Canaan đa sắc tộc

Người Do Thái sống cạnh các dân tộc khác ở Canaan. Ở biên giới phía bắc là người Phoenician, phía đông là người Ả Rập và các dân du mục Semitic khác như là Ammonites. Vào khoảng năm 1175 TCN, một nhóm người mới xuất hiện làm đảo lộn trật tự sắc tộc vốn rất mong manh của Canaan. Đó là người Philistines, một giống dân tiến bộ định cư dọc theo bờ biển phía nam của Canaan, tiền thân của người Palestine sau này.


Lúc này 12 con trai của Jacob (theo thứ tự sinh), Reuben, Simeon, Levi, Giu-đa, Dan, Naphtali, Gad, Asher, Issachar, Zebulun, Joseph and Benjamin trở thành tổ tiên của mười hai bộ tộc Ít-ra-en, trừ trường hợp của Joseph, người có hai con trai Manasseh và Ephraim đã được Jacob nhận làm con nuôi và trở thành danh xưng (eponym) của bộ tộc, theo Genesis 48. Tên của các bộ tộc này là: Reuben, Simeon, Levi, Giu-đa, Zebulun, Issachar, Dan, Gad, Asher, Naphtali, Joseph and Benjamin. Trong 12 bộ tộc này, bộ tộc được các độc giả hiện đại biết đến nhiều nhất là bộ tộc Giu-đa.

 

3. Cuộc sống trên Miền Đất Hứa

Sách Joshua và Sách Thủ Lĩnh mô tả cuộc sống buổi đầu của người Do Thái sau khi trở về Canaan là một xã hội nghèo, nông nghiệp, tổ chức theo bộ tộc và bình đẳng. Những khai quật khảo cổ trong Hậu kỳ Thời đại Đồ đồng đã xác nhận những mô tả này. Người Do Thái tổ chức xã hội dựa trên một hệ thống chính quyền cộng hòa lỏng lẻo, gọi là edah, giống như hội đoàn hay hội đồng. Ranh giới các bộ tộc dịch chuyển theo thời gian dựa trên các tranh chấp với láng giềng. Tranh chấp biên giới nội bộ rất hiếm khi xảy ra, tuy nhiên Sách Joshua có ám chỉ bóng gió đến sự ly khai giữa các bộ tộc miền bắc và nam.

III. TỪ LIÊN MINH CHI TỘC SANG CHẾ ĐỘ QUÂN CHỦ

Lúc đầu, người Do Thái không có vua. Họ chỉ liên kết với nhau dựa vào những điều răn của Thiên Chúa và chung sống dựa vào sự hiểu biết Thiên Chúa của họ. Từ khoảng năm 1200 TCN cho tới năm 1047 TCN, các bộ tộc người Do Thái sống bằng nghề canh nông và chăn nuôi, được tổ chức và cai trị không phải theo nguyên tắc nhà nước mà theo chế độ gia trưởng phụ quyền. Người đứng đầu cao tuổi nhất trong mỗi tộc họ tham dự vào hội đồng bô lão, đây là tòa án đưa ra phán xét cuối cùng trong bộ tộc. Các lãnh đạo của bộ tộc được gọi là thủ lĩnh, hay còn gọi là thẩm phán (judge), có trách nhiệm đặc biệt phân xử về đất đai, hôn nhân và các sự việc liên quan tới lề luật. Đồng thời, họ còn lãnh đạo những cuộc hành quân phối hợp giữa các bộ tộc trong những trận đánh với các dân tộc xung quanh, đặc biệt với quân Philistine.

Như đã đề cập ở trên, sự xuất hiện của người Philistines vào khoảng năm 1175 TCN đã làm đảo lộn trật tự sắc tộc vốn rất mong manh của Canaan. Trong khi người Do Thái và người Canaan sau nhiều căng thẳng đạt được thỏa thuận về những khu vực ảnh hưởng và ngưng chiến thì người Philistines đã xuất hiện và đe dọa sự ổn định hòa bình của khu vực. Ngày nay từ ‘Philistines’ ám chỉ cho một cái gì đó quê mùa, nhưng người Philistines thời đó thực sự rất có tài về nghệ thuật. Họ cũng là giống người thông minh trong nghệ thuật chiến tranh. Người Philistines đã sớm biết sử dụng kiếm sắt và mũ đồng như trong Sách Samuel (The Book of Samuel – cuốn thứ 8 của Kinh Thánh Hebrew) đã miêu tả về người chiến binh Philistines khổng lồ Goliath. Tuy nhiên, mặc dù người Philistines rất cẩn mật dấu diếm cách sản xuất vũ khí của họ, người Do Thái vẫn ăn cắp được những bí mật này và sao chép lại.

Sau khi ổn định định cư dọc theo bờ biển phía nam của Canaan, từ những địa điểm dọc bờ biển như Gaza, Gath, Ashkelon, Ekron và Ashdod, người Philistines bắt đầu lấn sang vùng đất nội địa của Canaan. Các bộ tộc người Do Thái ở phía nam liên tiếp bị người Philistines tấn công [1180-1150 TCN]. Tình trạng tranh chấp và chia rẽ giữa các bộ tộc cùng với những xung đột với các dân tộc bản địa xung quanh đặc biệt là với người Philistines dần dà vượt ra ngoài tầm giải quyết của các thủ lĩnh. Đã tới lúc người Do Thái đòi hỏi cần phải có một chính quyền trung ương, dưới sự cai trị của một vị vua. Thế là Saul [1043-1010 TCN] trở thành vị vua đầu tiên của Vương quốc Thống nhất Ít-ra-en. Tiếp theo là David [1002-970 TCN] là con rể của Saul, và sau đó là Salomon [970-931 TCN], con trai của David. Ít-ra-en chuyển dịch từ chế độ liên minh bộ tộc sang chế độ quân chủ.

1. Những vị vua vĩ đại ban đầu Saul, David, Salomon

Saul là một nông dân thuộc bộ tộc Benjamin, là bộ tộc chịu rất nhiều tổn thất do những cuộc tấn công của người Philistines. Tại thời điểm khi người Do Thái đòi hỏi cần phải có một chính quyền trung ương dưới sự cai trị của một vị vua, và sau rất nhiều lựa chọn khó khăn, Saul đã được nhà ngôn sứ Samuel xức dầu và trở thành vị vua đầu tiên của Vương quốc Thống nhất Ít-ra-en gồm 12 bộ tộc [1052 TCN]. Saul rất hiểu hoàn cảnh lúc đó của người Do Thái, và theo Sách Samuel, Saul rất thành công trong việc chiến đấu với kẻ thù từ mọi phía – người Philistines, Edomites và Ammonites, người Gibeonites, và người du mục Moabites. Trong thời gian trị vì, Saul và vị tổng chỉ huy quân đội đã xây dựng nên lực lượng quân đội chuyên nghiệp đầu tiên của Ít-ra-en gồm các đơn vị dựa trên đặc điểm của các bộ tộc và lãnh thổ. Tuy nhiên, theo Sách Samuel, Saul đã đôi lần không vâng lời nhà ngôn sứ Samuel và cuối cùng thì Samuel đã tuyên bố rằng Thiên Chúa đã từ chối Saul trong vai trò của một vị vua. Đến thời điểm này thì “nhân vật”David bước vào câu chuyện của cung đình.

David, sau này trở thành con rể của Saul, thuộc bộ tộc Giu-đa và là một người có biệt tài ngâm thơ. David đồng thời cũng là một tài năng lớn về quân sự. Theo lời kể trong Sách Samuel, David giết chết người khổng lồ Goliath của Philistines chỉ với một hòn đá và súng cao su [1024 TCN]. Trong vai trò lãnh đạo quân đội, David luôn giành thắng lợi ở trong bất cứ trận đánh nào mà Saul phái tới. Mỗi lần trở về từ các trận đánh, phụ nữ nhẩy múa và không tiếc lời ca ngợi David, tôn vinh chàng như một anh hùng quân đội vĩ đại hơn cả Saul. Điều này khiến Saul rất tức giận và ghen tuông trong nỗi lo sợ rằng David sẽ giành ngôi của mình. Lo sợ bị Saul ám hại, David phải bỏ trốn cùng với nhóm người thân tín của mình. Saul giết tất cả những ai đã che dấu David (1011 TCN).

Thiếu cánh tay quân sự tài ba của David, vài năm sau, trong một trận đánh với người Philistines tại núi Gilboa, quân đội của Saul chịu thất bại thảm hại và Saul tự vẫn (1010 TCN). Xác của Saul bị treo trên những bức tường của thành Beth She’an và được chôn ở Zelah. Con trai của Saul, Ish-Boshet, nối ngôi vua Ít-ra-en được hai năm [1007-1005 TCN].

Sau cái chết của Saul, bộ tộc Giu-đa ly khai khỏi sự cai trị của Gia đình Saul (House of Saul) bằng cách tôn vinh David làm vua của Giu-đa [1010-1002 TCN]. Chiến tranh giữa Ish-Boshet và David xảy ra sau đó với thắng lợi luôn nghiêng về phía David. Năm 1005 TCN, đội quân du kích của David đánh bại các lực lượng chính thống của Ish-Boshet. Năm 1002 TCN, David thống nhất Vương quốc Ít-ra-en. Lịch sử Do Thái bước vào một giai đoạn mới dưới sự trị vì của David [1002-970 TCN]. Ngôi sao sáu cánh đặc biệt của David (David Star) đã trở thành biểu tượng của dân tộc Do Thái, cùng với những bài thánh vịnh bất hủ của ông.

Vua David qua đời năm 970 TCN, nối ngôi là hoàng tử Salomon, một học giả đầy trí tuệ. Thời đại Salomon thịnh trị, thu phục được lòng tin của lân bang, mở rộng ngoại thương tới các xứ xa. Về mặt kinh điển, Sách Torah  được ghi thành văn bản dưới triều đại Salomon. Về mặt xây dựng đất nước, Salomon đã chia Ít-ra-en thành 12 khu vực thuế và phát triển Vương quốc thành một trung tâm buôn bán hùng mạnh và thịnh vượng. Salomon đã mở rộng đất đai bằng tài đàm phán và ngoại giao của ông hơn là những người tiền nhiệm đã thực hiện bằng chiến tranh. Biên giới đế quốc của Salomon trải dài từ sông Nile đến sông Euphrates bao trùm cả những kẻ thù cũ, gồm cả Philistines. Bằng chứng về sự mở rộng của vương quốc đã được tìm thấy vào năm 1902 với việc phát hiện những di tích của Ir Ovot, một pháo đài cao nguyên ở Sa mạc Negev, miền Nam Ít-ra-en. Di tích này được các nhà khảo cổ xác định là thuộc vào thế kỷ 10 TCN.

Tài năng thiên phú của David và Salomon còn được thể hiện nổi bật trong thi ca. Các bản văn trong Kinh thánh bao gồm nhiều đoạn văn được cho là của David và Salomon, nổi tiếng nhất là các thánh vịnh (Sách Thánh Vịnh – Book of Psalms – cuốn thứ 14 trong Kinh Thánh Hebrew), nơi mà thiên tài thi ca và niềm đam mê tôn giáo của David đã thể hiện một cách rõ nét. Các giáo sĩ Do Thái (Rabbis) cũng tin rằng Sách Châm Ngôn (Book of Proverbs – cuốn thứ 15 trong Kinh Thánh Hebrew) chính là tài hoa của Salomon.

Năm 960 TCN dưới thời Vua Salomon, Đền thờ Giê-ru-sa-lem đã được khởi công xây dựng, hoàn thành vào năm 825 TCN và được xem là kỳ quan đệ nhất của thế giới thời đó, hoàn thành giấc mơ dang dở của Vua David. Có thể nói thời đại David-Salomon là thời kỳ huy hoàng nhất trong lịch sử Ít-ra-en. Nó vĩnh viễn là một hoài niệm đầy tự hào của dân Do Thái suốt mấy ngàn năm.

2. Vương quốc Thống nhất Ít-ra-en bị chia đôi, Đền thờ Giê-ru-sa-lem bị phá hủy lần thứ nhất (586 TCN): Ly tán lần thứ nhất

David và Salomon đã trở nên bất tử trong cả ba đức tin độc thần giáo, nhưng từ góc độ lịch sử, cái chết của Salomon đã để lại một khoảng trống dẫn đến sự chia cắt của Vương quốc Thống nhất Ít-ra-en.

Trong nhiều thập kỷ, 10 bộ tộc phương Bắc không cảm thấy dễ chịu chấp nhận David là vua của họ. Sang đến thời Salomon, nhờ vào trí tuệ và sự khéo léo cho nên Salomon mới có thể tạm gắn kết những bộ tộc gây gổ này lại với nhau. Lý do chính của sự chia cắt là va chạm giữa Rehoboam, con trai và cũng là người kế thừa Salomon, và Jeroboam, một phiến quân thuộc bộ tộc Ephraim trong triều đình của Salomon. Năm 922 TCN, một cuộc nổi loạn đã chia Vương quốc Ít-ra-en thành hai tiểu vương quốc. Jeroboam, người không thuộc hoàng tộc David, lãnh đạo cuộc nổi loạn của mười bộ tộc phương Bắc lập nên nước Ít-ra-en lấy thủ đô là Samaria (gọi là Vương quốc Ít-ra-en phương Bắc hay Vương quốc Samaria). Chỉ còn lại hai bộ tộc Giu-đa và Benjamin trung thành với hoàng tộc David làm thành nước Giu-đa ở phương Nam, nơi có Đền thờ Giê-ru-sa-lem, lấy thủ đô là Giê-ru-sa-lem.

Vương quốc Ít-ra-en phương Bắc [930-720 TCN] chỉ tồn tại được khoảng 200 năm. Năm 720 TCN, Vương quốc Ít-ra-en phương Bắc bị xâm lăng bởi Đế quốc Assyria (một cường quốc ở vùng Mesopotamia, tọa lạc tại thượng nguồn sông Tigris với thủ đô là Niniveh). Tất cả mười bộ tộc của Vương quốc Ít-ra-en phương Bắc bị giết, bị lưu đày, và biến mất khỏi lịch sử. Lịch sử gọi sự kiện này là ‘Mười bộ tộc thất lạc’ (The Lost Ten Tribes).

Vương quốc Giu-đa phương Nam [930-586 TCN] tồn tại lâu hơn trong sự lệ thuộc vào người Assyria rồi cuối cùng cũng bị các đạo quân xâm lăng Babylon hủy diệt vào năm 586 TCN. Thành phố Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, Đền thờ Giê-ru-sa-lem bị san thành bình địa, dân nước Giu-đa hoặc bị giết hoặc bị lưu đầy sang Mesopotamia, đặc biệt là tới thủ phủ Babylon. Sự kiện này đánh dấu lần ly tán thứ nhất của dân tộc Do Thái cổ và cũng đánh dấu sự kết thúc thời kỳ được sách vở gọi là ‘Đền thờ thứ Nhất’ [825-586 TCN].

3. Mười bộ tộc thất lạc

Chuyện gì đã xảy ra với 10 bộ tộc phương Bắc bị thất lạc cho đến nay vẫn là một bí ẩn. Nhiều người chạy tị nạn từ Ít-ra-en xuống Vương quốc Giu-đa phương Nam. Những người khác có thể pha trộn với những người phi Do Thái ở Samaria và trở thành Samaritans hoặc trộn lẫn vào quỹ gen (gene-pool) của người Kurd ngày nay… Hậu duệ của 10 bộ tộc thất lạc này dường như xuất hiện ở khắp mọi nơi. Người Do Thái Ethiopia cũng như người Do Thái Yemen tự cho là con cháu của bộ tộc Dan. Bằng chứng cũng cho thấy rằng bộ tộc Tư tế (priestly sect) thuộc vùng Lemba của Nam Phi có dấu hiệu di truyền của bộ tộc Tư tế Kohanim của người Do Thái. Một nhóm ở Ấn Độ gọi là Shimlung nói họ là dòng dõi của bộ tộc Manasseh. Thậm chí một số người không phải Do Thái cũng tự nhận có tổ tiên thuộc 10 bộ tộc Ít-ra-en đã mất…

4. Lưu đày ở Babylon và trở về: Thời kỳ tự trị Do Thái

Năm 720 TCN có vẻ như đã đánh dấu sự sụp đổ của Do Thái giáo. Vương quốc Ít-ra-en phương Bắc bị Đế quốc Assyria xâm chiếm. Tất cả 10 bộ tộc của Vương quốc phương Bắc biến mất khỏi lịch sử.

Vương quốc Giu-đa phương Nam [930-586 TCN] bị các đạo quân xâm lăng Babylon hủy diệt vào năm 586 TCN. Số phận dân tộc Do Thái dường như đã xuống đến đáy. Nếu có một thời điểm nào đó trong lịch sử Do Thái giáo mà mọi ý nghĩa dường như cạn kiệt thì chính là lúc này. Người Do Thái giáo quằn quại trong đau khổ và tuyệt vọng. Đức tin của dân Do Thái đã trải qua một cuộc thử thách nặng nề khi họ chứng kiến cảnh Đền thờ bị tàn phá và bản thân họ bị lưu đày sang Babylon. Các nhà ngôn sứ giải thích rằng đây là một hình phạt về tội bất trung của người Do Thái với Giao Ước. Không phải là Thiên Chúa bỏ rơi người Do Thái, nhưng là người Do Thái đã bỏ Ngài, khi họ tìm sự nương tựa nơi các thế lực ngoại bang và ngay cả khi việc thờ phụng của họ dường như chỉ mang tính chất hình thức trống rỗng.

Thế nhưng trong hoàn cảnh hầu như tuyệt vọng ấy, các ngôn sứ vẫn nhắc nhở dân Do Thái hãy bình tâm tín thác vào Thiên Chúa: Thiên Chúa là đá tảng của sự tin cậy. Nếu không làm được điều này có nghĩa là người Do Thái đã mặc nhiên chấp nhận một logic là Thiên Chúa của kẻ thắng mạnh hơn Thiên Chúa của kẻ bại, cũng có nghĩa là dấu chấm hết cho lòng tin vào Thiên Chúa và cũng là dấu chấm hết cho dân tộc Do Thái. Các nhà ngôn sứ Do Thái đã từ chối logic đó và chính sự từ chối đó đã cứu vớt tương lai cho đất nước Do Thái. Một vị ngôn sứ Do Thái giáo vào thế kỷ 6 đã ghi lại rằng Thiên Chúa của người Babylon Marduk đã không thể đánh bại được Đức YHWH; và lịch sử vẫn thuộc về vương quốc của Ngài.

Tuy nhiên cuộc sống lưu đầy tại Babylon lại đã làm nảy sinh những hạt mầm mới, những truyền thống mới: đó là sự xuất hiện một tầng lớp tinh hoa trong xã hội và từ đây các học giả tôn giáo, các nhà hiền triết trỗi dậy trở thành lãnh tụ tinh thần của người Do Thái. Bắt đầu từ thời điểm này Babylon từng bước dần trở thành trung tâm sinh hoạt mới của người Do Thái bên ngoài Palestine. Điều này ảnh hưởng sâu sắc đến lịch sử của dân tộc Do Thái, đặc biệt là đối với sự phát triển của văn minh Do Thái.

Năm 538 TCN, người Ba Tư chinh phục Đế chế Babylon và người Do Thái trở thành thần dân của Đế quốc Ba Tư. Hoàng đế Ba Tư là Cyrus nhận thấy cần xây dựng một cứ điểm tại Palestine – vùng đất trọng yếu như một cầu nối giữa Tây Á và Bắc Phi. Nơi đây vừa có thể làm bàn đạp lý tưởng để tấn công Ai Cập, vừa có thể dùng làm vùng đệm chống lại sự xâm lăng từ phía Đông của Hy Lạp. Do vậy nên Cyrus quyết định ban hành chỉ dụ trả lại tự do cho người Do Thái đang sống ở Babylon, cho phép họ quay trở lại đất tổ Giu-đa. Đền thờ được xây dựng lại. Bản văn cuối cùng của Kinh Thánh Hebrew được soạn thảo. Việc xây dựng lại Đền thờ Giê-ru-sa-lem mất khoảng 20 năm; lễ khánh thành Đền thờ vào năm 515 TCN đánh dấu bắt đầu thời kỳ mà sách vở gọi là ‘Đền thờ thứ Hai’. Sau khi trở về từ Babylon, người Do Thái đã phỏng theo giáo chế của Ba Tư mà xây dựng nên một giai cấp tư tế mà nền tảng là các học giả giáo sĩ Do Thái, từ đó hình thành một thực tiễn chính trị tôn giáo hợp nhất điển hình trong lịch sử tôn giáo Do Thái.

Về việc phân chia giai đoạn, trong các sách lịch sử Do Thái, khoảng thời gian từ năm 3000-538 TCN được gọi là Thời Kỳ Kinh Thánh (Bible Time), và bốn thế kỷ tiếp theo từ năm 538-60 TCN được gọi là Thời Kỳ Tự Trị Do Thái. Thời gian từ 60 TCN – 1948 CN gọi là Thời kỳ Nước ngoài Cai trị.

Tiếp theo sau sự thống trị của Ba Tư vào thế kỷ 5 TCN, Canaan rơi vào tay Đế chế Macedonia của Alexander Đại Đế [336-323 TCN]. Trong sự nghiệp chinh phục vĩ đại chưa từng có trong lịch sử của Alexander Đại Đế, Đế chế Macedonia trải dài một vùng lãnh thổ rộng lớn khắp châu Á, châu Âu và châu Phi. Sau khi Alexander chết năm 323 TCN, do bị bệnh hay ngộ độc gì đó, Đế chế Macedonia rơi vào cảnh tranh giành hỗn loạn và chia thành bốn vùng. Tướng Ptolemy Soter và Seleucus cuối cùng nắm quyền kiểm soát Ai Cập và Syria, lập nên các vương triều của riêng mình: nhà nước Ptolemaic với thủ đô ở Ai Cập ở phương nam và nhà nước Seleucid với thủ đô ở Syria ở phương bắc. Palestine ngẫu nhiên trở thành vùng đất tranh chấp của hai vương triều này. Chỉ trong quãng thời gian 17 năm từ 319-302 TCN, Giê-ru-sa-lem bảy lần đổi chủ. Cả hai vương triều này duy trì chính sách tuyên truyền và phổ biến văn hóa Hy Lạp đối với Palestine trong một phong trào gọi là Hy Lạp hóa (Hellenism). Ptolemy thắng thế cho đến năm 198 TCN, khi Antiochus III [223-187 TCN], một vị vua năng động dòng họ Seleucid, chinh phục và kiểm soát toàn bộ Palestine. Trong thời kỳ này, nhiều người Do Thái di cư xuống Ai Cập.

Cũng trong thời kỳ này, việc kết hợp văn hóa truyền thống Do Thái với văn hóa Hy Lạp đã có một ảnh hưởng không nhỏ đối với văn minh Do Thái và giúp người Do Thái tạo nên một nền văn hóa độc đáo của riêng mình vừa mang đặc trưng của người Do Thái vừa mang đặc trưng của người Hy Lạp.

Khi người Syria dòng Seleucid áp đặt nhiều biện pháp nhằm đàn áp tôn giáo và việc thực hành tôn giáo của người Do Thái trên vùng đất Palestine, một cuộc khởi nghĩa của người Do Thái đã nổ ra vào năm 166 TCN dưới sự lãnh đạo của Maccabees. Cuộc khởi nghĩa thắng lợi và nghĩa quân dành được quyền kiểm soát Giu-đê-a (tên gọi của vương quốc Giu-đa trong tiếng Hy Lạp và La Mã), lúc đó là một tỉnh của Đế chế Seleucid. Maccabees lập nên triều đại Hasmoneans trị vì trong khoảng thời gian 164-63 TCN. Họ khẳng định lại tôn giáo của người Do Thái, một phần bằng cách chuyển đổi cưỡng bức, đồng thời mở rộng biên giới của Giu-đê-a bằng các cuộc chinh phục và giảm bớt ảnh hưởng của Hy Lạp hóa (Hellenism) và Do Thái giáo Hy Lạp hóa (Hellenistic Judaism).

Thời điểm này là kết thúc của Thời Kỳ Tự Trị Do Thái.

5. Đền thờ Giê-ru-sa-lem bị phá hủy lần thứ hai (70 CN): Ly tán lần thứ hai

Cùng trong thời gian này vào thế kỷ 2 TCN, từ một vương quốc lạc hậu được thành lập vào năm 753 TCN với các khu định cư xung quanh Palatine Hill dọc theo sông Tiber ở miền Trung Italia, La Mã đã phát triển thành một đế chế hùng mạnh chưa từng thấy trên thế giới trước đó. Sau khi đánh bại Đế chế Macedonia và Seleucid vào thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, La Mã đã trở thành người thống trị của Địa Trung Hải, mở ra lối vào Trung Đông. Người La Mã bắt đầu để mắt đến Giu-đê-a.

Tại Palestine, từ năm 60 CN trở đi, Vương quốc Hasmoneans của Ít-ra-en bị suy yếu bởi các mâu thuẫn bên trong và rơi vào sự thống trị của người La Mã. Tuy nhiên sự chuyên chế và tàn bạo của Đế quốc La Mã đã khiến người Do Thái liên tục vùng lên phản kháng vũ trang. Vào năm 66, mâu thuẫn giữa người Do Thái và người La Mã ở Giu-đa đã lên đến đỉnh điểm và biến thành cuộc nổi dậy của người Do Thái chống lại La Mã. Ban đầu người Do Thái chiếm ưu thế, nhưng chiều hướng thay đổi vào năm 68. Người La Mã dưới sự lãnh đạo của vua La Mã Titus đã giành lại quyền chủ động và vào mùa hè năm 70, quân La Mã đánh bại quân khởi nghĩa Do Thái tại Giê-ru-sa-lem. Hàng ngàn người Do Thái bị giết hoặc bị bắt làm nô lệ. Đền thờ Giê-ru-sa-lem bị san bằng. Cuộc khởi nghĩa thất bại và một phần lớn người Do Thái bị lưu đầy và phân tán đi khắp các miền của Đế quốc La Mã. Sự kiện này đánh dấu lần ly tán thứ hai và cũng đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ Đền thờ thứ Hai [515 TCN – 70 CN] và sự sụp đổ của Giu-đê-a trong vai trò trung tâm sinh hoạt của người Do Thái. Từ thời điểm này người Do Thái bắt đầu một cuộc sống lưu vong trên khắp các quốc gia trên thế giới kéo dài gần 2.000 năm. Người Do Thái một lần nữa tự hỏi liệu họ có thể tồn tại và vượt qua những khó khăn này hay không.

Dưới sự cai trị của Đế quốc La Mã [70-313] và sau đó là Đế quốc Byzantine [313-636], cộng đồng Do Thái trên Vùng đất Ít-ra-en vẫn tiếp tục duy trì và phát triển các nền tảng giáo dục, văn hóa và luật pháp riêng của mình. Luật pháp Do Thái quan tâm đến mọi khía cạnh của cuộc sống, đã được ghi lại trong Sách Mishna (thế kỷ 2) và được giải thích trong Sách Talmud (thế kỷ 3-5). Các luật này, về sau có một số phần được sửa đổi lại cho phù hợp với hoàn cảnh, ngày nay vẫn được những người Do Thái giáo tuân thủ.

Sau đó, suốt từ thế kỷ 7 cho đến 1948, Canaan lần lượt rơi vào tay người Ả Rập [636-1091], sau đó là người Seljuk [1091-1099], quân Thập Tự Chinh [1099-1291], quân Mamluk [1291-1516], người Thổ Nhĩ Kỳ thời Đế chế Ottoman [1517-1917], và cuối cùng là Anh Quốc [1917-1948].

--------------------------

---Còn tiếp---

zalo
zalo