LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH THÁNH - Phần 21/35
Lm. Phaolô Ngô Đình Sĩ
--------------------------------
V. CỘNG ĐỒNG NGƯỜI DO THÁI LƯU VONG
Có thể nói cuộc xâm lăng Vương quốc Ít-ra-en phương Bắc của người Assyria vào năm 720 TCN đã khởi đầu phong trào lưu vong (Diaspora) của người Do Thái sang các vùng đất khác trên thế giới, hình thành nên các Cộng đồng Do Thái lưu vong. Phong trào lưu vong càng phát triển mạnh vào cuối thế kỷ thứ nhất sau công lịch sau cuộc nổi dậy của người Do Thái chống lại người La Mã bị thất bại và quân La Mã phá hủy và san bằng Giê-ru-sa-lem vào năm 70. Có người bị ép buộc di cư. Có người tự ý. Dân tộc Do Thái bắt đầu cuộc đời trôi nổi, lang thang khắp Trung Đông, Địa Trung Hải và châu Âu qua nhiều thế kỷ.
Sự kiện Đền thờ Giê-ru-sa-lem bị phá hủy lần thứ hai vào năm 70 là một cú sốc lớn đối với người Do Thái lưu vong đến tận xương tủy. Giữa năm 115-117, người Do Thái một lần nữa tiếp tục nổi dậy chống lại kẻ cai trị La Mã và người láng giềng Hy Lạp ở một vài trung tâm lớn bên ngoài vùng đất Palestine: Alexandria, Cyprus, Mesopotamia, và Bắc Phi. Tất cả các cuộc nổi dậy này đều bị dập tắt, riêng ở Alexandria thì bị đàn áp dã man. Người Do Thái lưu vong hiểu một điều là họ cần có một cái đầu lạnh nếu dân tộc và đức tin Do Thái muốn được sống còn.
Bị lấy đi mất Đền thờ và không còn nơi thờ cúng, Sách Talmud được các Rabbis thời lưu vong thu thập và soạn thảo trong khoảng thời gian thế kỷ 3-5 đã trở thành ‘hiến pháp bỏ túi’ cho người Do Thái trong cuộc sống lưu đày. Sách Talmud đã khích lệ những tranh luận bác học, nghiên cứu và trở thành một kho tàng độc đáo về phong tục tập quán, nhân chủng, lề luật, lịch sử và văn chương của người Do Thái. Dần dà theo thời gian, Babylon đã thay thế Galilee để trở thành tâm điểm văn hóa và tôn giáo của người Do Thái.
Một điểm đặc biệt trong hành trình của người Do Thái lưu vong là, ở bất cứ nơi nào họ lưu lạc đến, trong bất cứ hoàn cảnh nào, vật quý nhất mà họ mang theo mình không gì khác là cuốn Kinh Thánh cùng những lời Thánh Vịnh của Vua David:
Thiên Chúa khôi phục linh hồn tôi
Thiên Chúa dẫn tôi đi trên đường công chính vì danh Ngài
Dù có bước qua thung lũng bóng tối của cái chết
Tôi cũng không sợ cái ác vì Thiên Chúa đang ở với tôi…
Kinh Thánh Hebrew đối với người Do Thái là đức tin, vừa là lịch sử, vừa là nguồn tri thức, giúp họ giữ được bản sắc trong giấc mơ trở về Đất Thánh.
Trong năm thế kỷ đầu tiên sau công lịch, trung tâm sinh hoạt của người Do Thái chuyển từ Vùng đất Ít-ra-en sang Mesopotamia, đặc biệt ở thủ phủ Babylon. Trong những thế kỷ tiếp theo, họ di chuyển xa hơn tới các quốc gia Trung Đông, rồi tới vùng vành đai Địa Trung Hải, châu Âu, Bắc Phi, Mỹ. Trung tâm sinh hoạt của người Do Thái tiếp tục di chuyển từ Babylon sang Tây Ban Nha, rồi Ba Lan. Ở bất cứ đâu, người Do Thái cũng hình thành nên những cộng đồng nhỏ rải rác. Trong khi họ tồn tại là một tôn giáo và một dân tộc, họ không thiết lập bất kỳ một thể chế chính trị nào.
Từ thế kỷ 13 về sau, người Do Thái giáo chịu sự tẩy chay, bài trừ ở hầu hết ở mọi quốc gia châu Âu. Đến thế kỷ 18, ở mọi nơi người Do Thái giáo bị dồn vào những khu ổ chuột rất tù túng và không ánh sáng gọi là ghetto. Nhiều cuộc thảm sát người Do Thái giáo tiếp tục xảy ra.
Tất cả những yếu tố này đã định hình lịch sử Do Thái trong gần hai ngàn năm tiếp theo. Trong khoảng thời gian dài đó, người Do Thái đã cho thấy khả năng phục hồi và kỷ cương đầy ấn tượng. Do Thái giáo được củng cố mạnh trong các cộng đồng Do Thái lưu vong.
1. Sách Talmud
Theo ngữ nghĩa, Talmud có nghĩa là ‘học’ (learning). Tuy nhiên ý nghĩa thực của Talmud còn rộng hơn rất nhiều. Với nhiều người, ngoài Kinh Thánh Hebrew thì sách Talmud là đại diện cho hiến pháp tôn giáo và dân sự của người Do Thái, một bản ‘hiến pháp bỏ túi’ đã giúp họ sống sót trong gần hai thiên niên kỷ lưu vong. Những người khác coi Talmud là kho tàng vô giá của văn minh Do Thái truyền thống.
Rộng hơn nữa, Talmud tượng trưng cho một quá trình kéo dài nhiều thế kỷ, một lối sinh hoạt của các học giả và một hướng dẫn sống cho tất cả những ai thực hành Do Thái giáo. Talmud chứa đựng những lề luật nghiêm ngặt, những tranh luận về đạo đức, minh triết của các nhà thông thái, lịch sử và triết học, những câu hỏi và trả lời, nhận định về những ý nghĩa tiềm ẩn trong Kinh Thánh, thậm chí cả truyện ngụ ngôn và phương ngôn tục ngữ. Kiệt tác đồ sộ này vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay và như được hiểu thì không bao giờ chấm dứt.
Rất hiếm ở các dân tộc khác (bao gồm Việt Nam) có những kiệt tác vô giá như thế này. Cũng rất hiếm ở các dân tộc khác có một diễn đàn như Talmud cho phép các nhà thông thái và giới trí thức được phản biện để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Người Do Thái đã làm được điều này từ trên 2.000 năm trước!
2. Khẩu Luật (Oral Law)
Hai bản Talmud của Palestine và Babylon, theo nghĩa hẹp, chỉ là giải nghĩa của Khẩu Luật (Oral Law). Về ngữ nghĩa, Khẩu Luật có nghĩa là những lề luật truyền miệng. Các truyền thống Do Thái cho biết Khẩu Luật đi kèm với Luật Viết (Written Law) – tên gọi khác của Kinh Thánh Hebrew – và được các ngôn sứ, các bậc trưởng lão, các Rabbis… truyền miệng cho các môn sinh của họ từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Nền tảng của Lề Luật Do Thái là 613 mitzvot, hay ‘điều răn’, có thể tìm thấy trong Sách Levi (Leviticus) và Sách Đệ Nhị Luật (Deuteronomy) của Sách Torah . Những điều răn này nhiều khi không được giảng giải cụ thể và đòi hỏi có thêm sự giải thích bên ngoài, và đó chính là lý do tại sao lại có Khẩu Luật. Thí dụ như, khi Sách Torah đơn giản nói “thou shall not cook the calf in its mother’s milk”(Deuteronomy 14:21 – “Anh em không được lấy sữa dê mẹ mà nấu thịt dê con”), thì Khẩu Luật sẽ phải dựa trên chỉ dụ này mà dựng lên cả một câu chuyện giải thích như thế nào và tại sao người ta không thể nấu lẫn sữa và thịt cùng với nhau.
Vậy Khẩu Luật đã được hình thành như thế nào và tại sao đã là truyền miệng lại còn được biên soạn thành văn bản thánh?
Theo phương thức đã nói ở trên, các Rabbis thường cắt nghĩa một điều luật hay điều răn trong Sách Torah song song với một truyền thống được truyền miệng. Khi trong Sách Torah có những từ ngữ chưa được giảng giải, những nghi thức không có hướng dẫn thì người Do Thái mặc nhiên cho rằng họ đã biết thông qua kiểu truyền miệng. Cách giải thích song song này dần dần trở thành Khẩu Luật. Kết quả là trong vài ba thế kỷ sau sự sụp đổ của Đền thờ Giê-ru-sa-lem, nhiều phần trong Khẩu Luật được các Rabbis sưu tập và biên soạn lại thành một bộ sách quí gọi là Talmud. Đây là văn bản trung tâm của các Rabbis.
3. Mishna (hay Mishnah)
Về cấu trúc, Talmud gồm 2 bộ: Mishna được soạn vào thế kỷ 2, và Gemara được soạn vào thế kỷ 5. Mishna là bản tóm lược đầu tiên bằng văn bản của Khẩu Luật, thực chất tóm tắt tất cả những tranh luận của các thế kỷ trước từ thời Ezra và dựa trên đó định ra bổn phận và trách nhiệm của người Do Thái trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Rabbi Yehuda HaNasi là người đầu tiên biên soạn văn bản này vào năm 200. Câu hỏi là tại sao Rabbi Yehuda lại quyết định viết Khẩu Luật thành văn bản thánh? Một số cho rằng rất nhiều học giả đã hy sinh trong hai cuộc nổi dậy vì vậy việc viết Khẩu Luật thành văn bản đơn giản là để nhằm tránh sự thất lạc trong tương lai.
4. Gemara
Mishna đánh dấu sự kết thúc của một quá trình và bắt đầu của một quá trình khác. Như đã nói ở trên, Mishna được viết thành văn bản gồm những lề luật, hướng dẫn, tranh luận mà trước đây chỉ được truyền miệng. Nó cũng làm khởi phát những tranh luận nóng bỏng giữa các Rabbis, và những tranh luận này về sau đã được biên soạn thành một bộ sách chú giải chi tiết khác gọi là Gemara, lấy từ thuật ngữ ‘nghiên cứu’ (study) trong tiếng Aramaic. Bộ Gemara này vượt trên cả những chú giải trong sách Mishna và Sách Torah , đề cập tới mọi lĩnh vực trong đời sống của người Do Thái trong những năm lưu lạc. Có hai phiên bản Gemara: một Gemara được biên soạn bởi cộng đồng Do Thái giáo ở Palestine và một Gemara được biên soạn ở Babylon. Talmud là kết quả gộp chung cả hai bộ Gemara và Mishna. Bộ Talmud của Palestine được hoàn thành vào năm 425. Còn bộ Talmud của Babylon hoàn thành vào năm 500, có khối lượng gấp ba lần bộ Talmud của Palestine, in thành 5.894 trang khổ đôi với 12 tập và có ảnh hưởng rất lớn với cộng đồng người Do Thái giáo trên toàn thế giới. Toàn bộ Talmud có 63 bài luận, bao gồm những ý kiến của hàng ngàn Rabbis trong nhiều chủ đề, cả về pháp luật, đạo đức, triết học, phong tục, lịch sử, thần học, truyền thuyết và nhiều chủ đề khác. Trong một số sách vở, thế kỷ 3-5 được gọi là ‘Thời kỳ Talmud’.
Một điều chắc chắn là Talmud có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tâm linh của người Do Thái, cung cấp nghi lễ thực hành tại các Hội đường Do Thái và tài liệu cho các bài thuyết giảng của các Rabbis. Sách Talmud hé lộ những lời dạy cụ thể giúp con người kéo dài cuộc sống, tăng cường sức khỏe thể chất, mang lại sự ổn định về tinh thần, giúp xây dựng gia đình và xã hội vững mạnh, và cung cấp cho con người sự khôn ngoan trong mọi quyết định của cuộc sống.
Sự thành công đáng kinh ngạc của người Do Thái trong lịch sử đã trở thành điều bí ẩn và được nghiên cứu qua nhiều thế hệ và từ nhiều góc độ. Nhiều học giả cho rằng chìa khóa của sự thành công đó là vì trọng tâm của Do Thái giáo chính là đọc sách, học tập, và làm theo những lề luật và các điều răn trong Kinh Thánh và Talmud.
5. Halakha
Halakha là bộ luật tôn giáo Do Thái được xây dựng dựa trên Torah Viết (Ngũ kinh Mô-sê) và Torah Nói (Talmud), quy định những điều người Do Thái được và không được làm, những điều họ nên và không nên làm trong mọi khía cạnh của cuộc sống thường nhật, từ việc thực hiện nghĩa vụ tôn giáo, lễ nghi cho tới quan hệ hôn nhân, từ ứng xử trong cộng đồng cho tới luật dân sự và hình sự. Torah Viết (Ngũ kinh Mô-sê) đóng vai trò trung tâm trong việc định hình tất cả các khía cạnh của đời sống Do Thái trong và sau cuộc lưu đầy Babylon [586 TCN – 538 TCN]. Còn Torah Nói (Talmud) phát triển dựa trên các cuộc tranh luận, hướng dẫn, phân xử của các thế hệ học giả, hiền triết, Rabbis, những người nổi lên như những lãnh tụ tôn giáo thế hệ mới trong thời kỳ Đền Thờ thứ Hai. Có thể nói Sách Torah , Talmud và cuối cùng bộ luật tôn giáo Halakha là trụ cột tâm linh vững chắc của Do Thái giáo, tạo ra sự khác biệt của Do thái giáo với các tôn giáo khác.
6. Cộng đồng Do thái lưu vong sau năm 70 CN
Trước Công nguyên, do kết quả những cuộc xâm lăng, người Do Thái bị lưu đầy sang vùng đất Mesopotamia, đặc biệt là thủ phủ Babylon, rồi Ai Cập. Năm 70 CN, Đền thờ Giê-ru-sa-lem bị san bằng, hàng ngàn người Do Thái bị giết hoặc bị bắt làm nô lệ và bị lưu đầy phân tán đi khắp các miền của Đế quốc La Mã. Vào thời gian này có khoảng bảy triệu người Do Thái cư ngụ bên trong biên giới của Đế quốc La Mã, chiếm 10% dân số, và một triệu người sống bên ngoài biên giới chủ yếu ở Babylon.
Từ thời điểm này hành trình lưu vong của người Do Thái bắt đầu đẩy mạnh và lan rộng tới mọi vùng đất xa xôi khác trên trái đất, khởi đầu từ Trung Đông, sang vành đai Địa Trung Hải, rồi sau đó tiếp tục lan sang châu Âu, Bắc Phi, Đông Âu, Trung Hoa,… cuối cùng tới Bắc Mỹ.
7. Ki-tô giáo ra đời
Vào cuối thế kỷ 1, Ki-tô giáo ra đời và khởi đầu như là một chi nhánh của Do Thái giáo, với Chúa Giê-su và các tông đồ của Ngài là những người thực hành Do Thái giáo. Chúa Giê-su là người Do Thái vùng Galilee, sinh vào khoảng đầu thế kỷ thứ nhất. Ki-tô giáo lấy Kinh Thánh, các hình thức thờ phụng, và học thuyết tận thế của mình trực tiếp từ Do Thái giáo. Vào thời gian này, Hoàng đế La Mã Constantine I có xu hướng thiên về Ki-tô giáo và từng bước làm cho Ki-tô giáo trở thành quốc giáo. Ông đã hợp pháp hóa Ki-tô giáo với Sắc lệnh Milan năm 313. Năm 315 Constantine lên án người Do Thái là tội đồ trong cái chết của Chúa Giê-su, xóa bỏ tội đóng đinh Chúa Giê-su lên thánh giá khỏi những người tiền nhiệm của ông. Năm 323 Ki-tô giáo chính thức trở thành quốc giáo của Đế quốc La Mã. Năm 337 Hoàng đế La Mã Constantius II – con thứ hai của Constantine I và Fausta – ra sắc lệnh đặt Do Thái giáo ra ngoải vòng pháp luật, cấm người Do Thái làm chủ nô lệ đối với người không phải Do Thái, cấm hôn nhân giữa người Do Thái và người Ki-tô giáo, cấm các Rabbis hội họp.
Trong khi một số các Hoàng Đế La Mã khác vẫn ủng hộ quyền thực hành tôn giáo của người Do Thái, các giáo sĩ Ki-tô giáo luôn tìm cách ngăn chặn ảnh hưởng của Do Thái giáo bằng cách đòi tất cả người Do Thái giáo cải đạo sang Ki-tô giáo. Họ có cảm xúc mạnh về Palestine, nơi mà Chúa Giê-su đã ra đời và bị đóng đinh trên thánh giá.
Trong những thế kỷ đầu sau công nguyên, cuộc sống của người Do Thái tại Palestine chịu nhiều khó khăn và dần dần suy tàn. Vào cuối thế kỷ 6, tại Palestine chỉ còn có 43 cộng đồng người Do Thái, chủ yếu là ở vùng Galilee và thung lũng Jordan. Người Do Thái bắt buộc phải di chuyển trung tâm sinh hoạt sang các vùng khác bên ngoài Palestine.
Mặc dù sống lưu lạc, ở những nơi này, các hoạt động của người Do Thái giáo trong việc nghiên cứu, thảo luận, bổ xung các điều luật, giới răn, và biên soạn Talmud được diễn ra rất mạnh mẽ. Cuốn Sách Talmud đồ sộ của cộng đồng Do Thái Babylon được hoàn thành vào thời gian này – khoảng năm 500 CN, có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống tâm linh, đạo đức và nề nếp sinh hoạt của người Do Thái trên toàn thế giới cho đến tận ngày nay.
Năm 622, Muhamad sáng lập ra Hồi giáo (Islam) ở bán đảo Ả Rập. Năm 636, người Ả Rập chinh phục Palestine và các khu vực khác ở Tây Á, lập ra Đế quốc Ả Rập. Dưới sự thống trị của người Ả Rập, người Do Thái phải nộp thuế thân và thuế đất để bảo vệ tính mạng, của cải và sự tôn giáo của mình. Cuộc sống người Do Thái rất khó khăn. Từ thế kỷ 8 cho đến 12, nhiều người Do Thái ở Mesopotamia và Ba Tư di chuyển bên trong lãnh thổ các vương quốc Hồi giáo, nhất là Yemen, Syria, Lebanon, Ai Cập, Maghreb. Những người khác di chuyển đến định cư ở bán đảo Iberia rồi Sicily. Những làn sóng di cư Do Thái này tạo ra các cộng đồng Do Thái thành thị nhỏ khắp thế giới. Nếu lấy bản đồ thế giới, gắn đinh ghim đỏ lên những nơi có người Do Thái sinh sống năm 1170 thì tấm bản đồ đó sẽ rực một màu đỏ từ Anh, bán đảo Iberia cho tới Ấn Độ.
Đây là khoảng thời gian được gọi là ‘Thời kỳ Hoàng Kim’ (Golden Age) của lịch sử Do Thái trong đời sống lưu vong. Việc làm ăn buôn bán của người Do Thái được phát triển mở mang, tất cả đều có mức sống cao, giáo dục cho tầng lớp trẻ rất được quan tâm và để lại một di sản trí tuệ bền vững và xuyên suốt qua nhiều thế kỷ sau này cho Do Thái giáo. Về sau, với sự sa sút của những khu vực này do cuộc chinh phạt Trung Đông của người Mông Cổ từ những năm 1220 tới những năm 1250, người Do Thái chuyển hướng mở rộng di cư sang Bắc Phi và các nước khác của châu Âu. Việc này kéo dài cho đến tận thế kỷ 13-15.
Do ảnh hưởng của chính sách bài Do Thái tại châu Âu cùng các cuộc Thập Tự Chinh [1099-1291], rồi bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha vào năm 1492… người Do Thái lại tiếp tục hành trình lưu vong của mình sang các vùng đất thuộc Đế chế Ottoman và các quốc gia thuộc Đông Âu.
VI. CÁC CỘNG ĐỒNG DO THÁI Ở ĐỊA TRUNG HẢI
Bên ngoài Trung Đông và Ai Cập, các cộng đồng Do Thái đã đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt của vùng lưu vực Địa Trung Hải, một vị thế mà họ vẫn còn duy trì được ngay cả sau khi Đế quốc La Mã sụp đổ cuối thế kỷ 5. Đó là những khu vực xa xôi ở Marốc và Tunisia – đặc biệt những thành phố của Kairouan; và đảo Djerba. Các nơi khác bao gồm các vùng đất bao quanh Địa Trung Hải thuộc Đế chế Ottoman như Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Anatoia, miền Nam nước Pháp, và Cyrenaica – vùng bờ biển phía Đông của Libya. Không bị ảnh hưởng của sự thăng trầm của các đế chế, người Do Thái tại Libya, Syria, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ đã tạo nên một mạng lưới buôn bán hàng hóa, dịch vụ và ý tưởng dọc khắp Địa Trung Hải.
1. Người Do Thái ở Hy Lạp
Tại Hy Lạp, các bằng chứng cho thấy rằng người Do Thái đã có mặt ở đây khoảng năm 300 TCN; một vài nhóm có thể đã đến đây sớm hơn trong thời kỳ lưu đầy Babylon. Theo thời gian, họ đã hình thành nên một cộng đồng gọi là Romaniotes hoàn toàn khác với người Do Thái Sephardi[2] và Ashkenazi[3]. Họ có phong tục địa phương riêng và nói một ngôn ngữ riêng gọi là Yevanic, một thứ thổ ngữ Hy Lạp viết bằng chữ Hebrew. Một khách du lịch Do Thái thời tiền trung cổ tên là Benjamin viết rằng cộng đồng Romaniotes lớn nhất là ở Thebes, ở đó người Do Thái nổi tiếng với nghề nhuộm vải và sản xuất quần áo lụa thủ công. Họ cũng sống ở các đảo Corfu và Aegina, và ở Corinth, Athens và Thessaloniki là nơi sau này trở thành thành phố Do Thái Hy Lạp lớn nhất khi người Do Thái Sephardi tràn đến từ Tây Ban Nha sau khi bị trục xuất vào năm 1492.
2. Người Do Thái ở Tây Ban Nha – Thời kỳ Hoàng kim [thế kỷ 8-12]
Khi người La Mã xâm lăng Bán đảo Iberia vào năm 218 TCN và bắt đầu định cư vào năm 171 TCN, họ đã chạm trán với quần thể đa sắc tộc ở đây gồm người Celt, Phoenicia, Carthaginia, và cả các gia đình Do Thái – những người nói rằng họ là hậu duệ của người tị nạn Do Thái đến đây từ thời kỳ Đền thờ thứ Nhất. Tuy nhiên phải đến cuối thế kỷ 1 sau CN, sau khi Đền thờ Giê-ru-sa-lem bị Đế quốc La Mã phá hủy lần thứ hai, thì người Do Thái mới bắt đầu thực sự rời bỏ Palestine, mở rộng lưu vong đến những vùng lãnh thổ khác thuộc Đế quốc La Mã, đặc biệt là các quốc gia trong vành đai Địa Trung Hải trong đó có Tây Ban Nha.
Một điểm đặc biệt ở Tây Ban Nha là, qua nhiều thế kỷ chuyển đổi từ giai đoạn La Mã, sang Hồi giáo, rồi Ki-tô giáo, người Do Thái luôn giữ vai trỏ đứng đầu trong đời sống văn hóa, xã hội và kinh tế của Tây Ban Nha. Người Do Thái Tây Ban Nha gọi họ là Sephardim phỏng theo tên Sepharad – tên gọi của một địa danh trong Kinh Thánh. Họ nói một thứ thổ ngữ Ả Rập trong các vùng của người Hồi giáo, và nói tiếng Judeo-Spanish gọi là Judezmo hoặc Ladino trong các vùng của người Ki-tô giáo. Cả hai thứ tiếng này được viết bằng chữ cái Hebrew.
Cuộc xâm lăng Bán đảo Iberia vào những năm đầu thế kỷ 8 của người Ả Rập và Berber, dưới ngọn cờ Hồi giáo, chính là chìa khóa đã mở bung sự sáng tạo của người Do Thái ở Tây Ban Nha. Nhà cầm quyền Hồi giáo đã mang đến sự kích thích tìm hiểu tri thức, sức sống kinh tế và sự nhạy cảm thẩm mỹ – những thứ ảnh hưởng mạnh mẽ đến người Ki-tô giáo và người Do Thái, mở đầu cho ‘Thời kỳ Hoàng kim’ của người Do Thái Sephardi trong đời sống lưu lạc. Thời kỳ này đã sản sinh ra biết bao nhiêu nhà thông thái, ngôn ngữ học, khoa học, vật lý, các nhà ngoại giao, thiên văn học và các nhà huyền môn Do Thái.
Người Ả Rập thống trị Bán đảo Tây Ban Nha cho đến thế kỷ 11 khi người Ki-tô giáo giành lại được bán đảo này, và vào năm 1096 Tòa thánh Vatican khởi động các cuộc Thập Tự Chinh kéo dài từ châu Âu sang đến tận Giê-ru-sa-lem. Giáo Hoàng thúc giục các nhà cầm quyền Ki-tô giáo tấn công người Do Thái giáo và người Hồi giáo ở châu Âu và thu hồi các vùng thánh địa ở Palestine đang nằm dưới quyền kiểm soát của người Hồi giáo. Các cộng đồng Do Thái giáo và Hồi giáo ở khắp châu Âu bị Thập Tự Quân càn quét dữ dội đến nỗi nhiều người Do Thái giáo phải đào thoát sang các quốc gia khoan dung hơn như Ba Lan hoặc các quốc gia Hồi giáo.
Đầu thế kỷ 14, ở Tây Ban Nha lại dấy lên phong trào bài Do Thái. Những bách hại và cưỡng bức cải đạo tiếp tục tăng lên. Người Do Thái nếu không cải đạo sang Ki-tô giáo sẽ bị tử hình hoặc bị tước đoạt quyền công dân. Một bộ phận những người Do Thái giàu có đã tự nguyện chuyển sang Ki-tô giáo; một số người bị ép phải cải đạo nhưng vẫn bí mật duy trì Do Thái giáo – những người này gọi là Marranos. Để thanh trừ các Marranos, giáo hội Ki-tô Tây Ban Nha lập ra tòa án phán xét dị đoan nhằm tiến hành phán xử các Marrano bằng những biện pháp nghiệt ngã từ roi vọt đến thiêu sống. Trong thời gian này có khoảng 40 vạn người Do Thái bị phán xét trong đó ba vạn người bị tử hình. Áp lực tiếp tục tăng lên cho đến năm 1492 khi Vua Ferdinand của Tây Ban Nha ra sắc lệnh trục xuất người Do Thái giáo và Hồi giáo khỏi Tây Ban Nha. Vào giữa thế kỷ 15, sự bức hại của Tây Ban Nha đối với người Do Thái tăng đến đỉnh điểm và tàn khốc, dẫn tới phong trào bài Do Thái khắp châu Âu. Hàng ngàn người Do Thái một lần nữa lại phải bỏ Tây Ban Nha trốn sang Ý, Marốc (Bắc Phi), Bán đảo Balkan, Thổ Nhĩ Kỳ của Đế chế Ottoman, và Ba Lan…
-------------------------
---Còn tiếp---