Lòng Kính Ngưỡng Sự Sống Trong Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam
Phần 2/3
Phaolô Nguyễn Hải Đăng, OP.
c õ ª õ d
II. NHO GIÁO – NHÂN TỐ BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN GIÁ TRỊ SỰ SỐNG TRONG VĂN HÓA BẢN ĐỊA
1. Nền tảng lịch sử
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Nho giáo du nhập vào nước ta vào thời Tây Hán (khoảng 110 TCN – 39), khi cường quyền nước lớn Trung Hoa đặt ách thống trị, khởi đầu 1000 năm Bắc thuộc. Chính quyền phong kiến nhà Tây Hán đặt các thái thú Tích Quang và Nhâm Diên trị sở về mặt hành chính quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Theo sử liệu, chính thái thú Tích Quang và Nhâm Diên với đường lối nghĩa giáo, lễ trị là những người có công đầu trong việc truyền bá và phát triển tư tưởng Nho giáo trên vùng đất Lĩnh Nam. Đến những năm 187-226, thái thú Giao Châu là Sĩ Nhiếp, một người am tường các sách kinh điển Nho gia, đã góp phần làm phát triển học thuyết Nho giáo qua việc giáo hóa dân chúng, vì vậy ông đã được dân tộc ta tôn xưng là Nam Giao Học Tổ. Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi lại: “Sau khi Hán Linh Đế mất, thiên hạ loạn lạc, chỉ có Giao Châu, trị sở của Sĩ Nhiếp, người khoan dung, nhân hậu, kính trọng kẻ sĩ, là còn hơi yên tĩnh, nên nhân tài, danh sĩ nhà Hán sang lánh nạn khá đông, trong số đó có nhiều người làm nghề dạy học truyền bá đạo Nho”.[18]
Chính Nho giáo là nhân tố góp phần xây dựng hệ nguyên lý cho việc thờ cúng tổ tiên vốn có nguồn gốc từ bản địa, ở cả ba phẩm trật: gia đình, dòng tộc và nhà nước. Khổng Tử là người đầu tiên xây dựng một học thuyết hoàn chỉnh cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong học thuyết Nho giáo. Ơ nước ta, việc cúng tế tổ tiên từ khi chịu ảnh hưởng của Nho giáo mới phân theo thức bậc và lễ tiết. Sách Đại Nam nhất thống chí có ghi: các rằm tháng giêng, tháng bảy và tháng mười gọi là tam nguyên, các nhà đều thờ cúng tổ tiên.[19]Các vương triều phong kiến ủng hộ tín ngưỡng này vì nó góp phần quan trọng vào việc tổ chức xã hội, đảm bảo trật tự cơ cấu từ gia đình, dòng tộc cho đến quốc gia. Nhưng nguyên nhân sâu xa bởi tín ngưỡng bản địa này đã tiếp biến và phát triển phong phú trong mảnh đất Nho giáo. Đạo hiếu – tư tưởng cốt lõi trong hệ thống luân lý Nho giáo đã góp phần bảo tồn và thăng hoa giá trị sự sống, bản sắc của nền văn hóa bản địa. Một sự dung hợp hiếm thấy. Chính yếu tố này giúp Nho giáo ngày càng bám sâu và ảnh hưởng cách mạnh mẽ trên đời sống tinh thần và thiết chế xã hội Việt Nam trong hơn 1800 năm.
2. Đạo Hiếu của Nho giáo – nhân tố bảo tồn và phát triển giá trị sự sống của văn hóa bản địa
Nho giáo thiết chế xã hội dựa trên ba quan hệ căn bản theo chiều dọc gọi là “tam cương”, đó là vua-tôi, cha-con, chồng-vợ. Trong ba quan hệ đó, có hai quan hệ thuộc thiết chế gia đình, đó là cha-con, chồng-vợ. Vì vậy, tư tưởng Nho giáo xác định việc tề gia là điều kiện tiên quyết để có thể trị quốc. Thiết chế gia đình thuộc lĩnh vực gia quy, còn quan hệ vua-tôi thuộc quy phạm quốc pháp. Sự thống nhất giữa nhà và nước cần thiết như thế nào thì sự thống nhất giữa quy và pháp cũng cần thiết như vậy. Vì vậy, để xây dựng thiết chế gia đình ổn định, Nho giáo đề cao đạo hiếu như nền tảng bảo đảm sự ổn định xã hội.
Về phương diện chiết tự, theo các nhà khảo cứu văn tự cổ của Trung Quốc thì chữ “Hiếu” kết cấu theo thể loại hội ý[20], nghĩa là chữ viết phản ánh một quan niệm xã hội. Phía trên chữ hiếu là hình tượng nam nữ giao phối, phía dưới là chữ tử – con người, tượng trưng cho sự sống phát sinh từ hành vi tính giao nam nữ. Như vậy ngay trong ý nghĩa từ ngữ, chữ hiếu đã bao hàm ý niệm về sự sống trong tâm thức của người xưa, một sự hòa điệu ngẫu nhiên giữa đạo hiếu của Nho giáo với tín ngưỡng phồn thực bản địa liên quan đến ý thức tôn trọng sự sống.
a. Tôn trọng sự sống-giá trị luân lý Nho giáo
Khổng Tử nói: “Chặt một cái cây, giết một con thú không đúng thời điểm, như vậy không thể gọi là hiếu được” – (đoạn nhất thụ, sát nhất thú, bất dĩ kì thời, phi hiếu dã). Đối với Nho giáo, đạo đức lớn nhất chính là sự sống (đại đức viết sinh). Không chỉ những hành vi can thiệp hay phá hoại sự sống mới bị xem là “bất hiếu” mà ngay cả những hành vi không tiếp tục tạo ra sự sống cũng bị quy gán vào tội “bất hiếu”. “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” – “Có ba điều bất hiếu, điều bất hiếu lớn nhất là không tạo sinh, duy trì nòi giống”.[21]
“Thận chung, truy viễn” – “kính nhớ tổ tiên và duy trì sự sống qua việc tạo sinh” là lẽ sống bất di dịch của đạo đức Nho giáo, chi phối và ảnh hưởng mạnh mẽ mọi thiết chế gia đình thời xưa. Cúng bái tổ tiên là hiện tượng ít nhiều liên quan đến tín ngưỡng phồn thực. Hạt giống tín ngưỡng phồn thực ở những mảnh đất khác nhau mọc thành những cây khác nhau.[22]Khi du nhập vào Việt Nam, chính Nho giáo đã khoác lên tín ngưỡng phồn thực bản địa một hệ nguyên lý, một cơ cấu nghi thức, phẩm trật khiến cho tín ngưỡng này mang nặng tính xã hội hơn tính tôn giáo. Cúng bái tổ tiên là biểu hiện bên ngoài của “đạo hiếu” bên trong. Đạo hiếu trở thành giá trị đạo đức vừa mang tính tự nhiên, vừa mang tính xã hội. Mang tính tự nhiên vì tạo sinh và duy trì sự sống là đặc tính căn bản của đạo hiếu. Nhưng trong cơ cấu xã hội vẫn có những ngăn trở về mặt đạo đức như trong thời gian để tang bố mẹ, người con không được quan hệ tính giao nam nữ, đó là hiếu tử.
b. Đạo hiếu – nhân tố bảo tồn sự sống trong văn hóa bản địa
Đạo hiếu trong luân lý Nho giáo bao hàm cả ba nghĩa: cúng bái để tỏ lòng tưởng nhớ tổ tiên, sinh con đẻ cái để kế tục giống nòi, phụng dưỡng và kính trọng cha mẹ.[23]Văn hóa chữ “Hiếu” của phương Đông dựa trên quan hệ huyết thống ăn sâu bám rễ từ nghìn đời và vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Ý thức quan hệ huyết thống là biểu hiện cụ thể của tâm thức kính ngưỡng sự sống, một giá trị văn hóa phương Đông nói chung và là một bản sắc của văn hóa Việt Nam nói riêng. Chính sự tương đồng này là nguyên nhân lý giải về sự dung hợp văn hóa giữa Nho giáo và văn hóa truyền thống Việt Nam. Nho giáo trở thành nhân tố góp phần bảo tồn và phát triển những giá trị sự sống trong văn hóa bản địa. Hiện tượng này cũng xảy ra tương tự đối với Phật giáo và Đạo giáo khi du nhập vào Việt Nam. Phật giáo từ Ấn Độ không xem “đạo hiếu” là nền tảng đạo đức. Quan niệm đạo đức của Phật giáo Ấn Độ khác về cơ bản với quan niệm đạo đức Nho giáo ở chỗ “cảnh giới đạo đức cao nhất là đạo đức ngược lại với đạo đức thế tục”.[24]Chữ “hiếu” của Nho giáo thuộc văn hóa trần tục còn đạo đức của Phật giáo thuộc văn hóa siêu trần tục. Phật giáo tuy cũng đề cập đến Tứ Ân[25], trong đó báo ân cha mẹ được đặt ở hàng đầu, nhưng ân và báo ân của Phật giáo không tương đồng về nội dung với hiếu và báo hiếu của Nho giáo. Nhưng khi du nhập vào Việt Nam, đạo lý hiếu nghĩa của Nho giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ trên giáo lý Phật Giáo tại Việt Nam. Vì vậy, thật không lạ khi chỉ có Phật Giáo Việt Nam có kinh Vu Lan, còn được gọi là Hiếu Kinh Phật Giáo hay kinh Phụ Mẫu Ân Trọng, một kinh Phật không hề có trong hệ thống kinh điển Phật Giáo Ấn Độ. Điều này cho ta thấy, đạo Hiếu đã chi phối các giá trị văn hóa mạnh mẽ như thế nào.
Sách Hiếu kinh được phương Tây gọi là Kinh Thánh của phương Đông đã hệ thống hoá những hành vi đạo đức như những chuẩn mực về đạo hiếu:
“Hiếu là cái gốc của đạo đức, giáo hóa bắt đầu mà ra”– (phù hiếu, đức chi bản dã, giáo chi sở do sinh dã).[26]
“Việc đầu tiên của đạo hiếu của đạo Hiếu là không được hủy hoại thể xác, da tóc do cha mẹ sinh ra. việc cuối cùng của chữ Hiếu là thực hành đạo lý, làm nên sự nghiệp lưu danh hậu thế, vẻ vang cho cha mẹ” – “Thân thể phát phu, thọ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương, hiếu chi thủy dã. Lập thân hành đạo danh ư hậu thế, dĩ hiển phụ mẫu, hiếu chi trung dã”[27] Đạo “Hiếu” theo luân lý Nho giáo không chỉ giới hạn ở hành vi phụng dưỡng, tôn kính cha mẹ khi còn sống hay trách nhiệm thờ kính khi cha mẹ đã khuất. Đạo hiếu thể hiện ngay trong thái độ tôn trọng những giá trị sự sống nơi bản thân “không hủy hoại thể xác, da tóc do cha mẹ sinh ra”. Sự sống con người là kết quả giao hòa trời- đất, là hội tụ khí huyết của bậc sinh thành. Vì vậy, tự bản chất, sự sống là giá trị thánh thiêng bất khả xâm phạm. Tôn trọng sự sống của chính mình và người khác là biểu hiện tinh thần hiếu để Nho giáo.
Sách Thuyết Văn đã tóm lược giá trị tinh túy của đạo hiếu Nho giáo: “Thờ mẹ, kính cha trọn đạo” (thiện sự phụ mẫu). Trọn đạo ở đây khái quát thành bốn chữ: “dưỡng” (nuôi nấng), “kính”(thái độ kính trọng), “gián” (can gián những điều sai), “thuận” (không làm phật lòng, trái ý cha mẹ). Nho giáo xem chữ “hiếu” là nền tảng của đạo đức nhân ái, hay nói cách khác, toàn bộ kiến trúc Nho giáo được xây dựng trên nền tảng chữ “hiếu”. Chính trị có vững vàng hay không phụ thuộc vào đạo đức, đạo đức có ổn định hay không phụ thuộc vào chữ hiếu: “Người quân tử phải giữ lấy cái gốc, gốc vững thì đạo lý tự khắc hình thành. Cho nên hiếu đễ chính là cái gốc của học thuyết nhân” – “Quân tử vụ bản, bản lập nhi đạo sinh. Hiếu để giả kì vi nhân chi bản dư”.
Đạo hiếu Nho giáo vừa mang tính tự nhiên vừa mang tính xã hội. Về mặt xã hội, là chỗ dựa vững chắc của thể chế chính trị phong kiến. Vì vậy chế độ phong kiến càng lỗi thời, thì nội dung của chữ hiếu càng lạc hậu và bảo thủ, theo kiểu ngu hiếu, ngu trung. Khi đó, nó tước đoạt giá trị nhân văn vốn có là lòng kính ngưỡng và tôn trọng sự sống. Có thể, tư tưởng Nho giáo nặng về cơ cấu, hình thức tổ chức nên đôi lúc làm phai mờ nét đặc trưng tự nhiên của đạo hiếu là tâm thức kính ngưỡng sự sống “hiếu sinh, ố tử”. Vì vậy, trong bài viết này, tôi muốn bứt phá khỏi cái nhìn phiến diện mang tính xã hội của Nho giáo, để trở về nguồn tìm lại những nét nhân văn trong tinh thần hiếu đễ Nho giáo, một mảnh đất màu mỡ đã nuôi dưỡng, bảo tồn và phát triển những giá trị sự sống của nền văn hóa bản địa. Chính Nho giáo là một trong những nhân tố góp phần định hình bản sắc văn hóa Việt Nam. Viên ngọc được mài giũa đã lộ rõ những đường nét sắc xảo. Nhưng những đường nét này ngày càng tinh xảo hơn khi một lần nữa, văn hóa Việt Nam trải qua quá trình tiếp biến với văn hóa Tây phương, cụ thể là văn hóa Kitô giáo vào những năm đầu thế kỷ XVI. Về mặt xã hội, đây là một cuộc hội nhập không thành công. Nhưng nhìn từ khía cạnh đạo đức, chính nền tảng luân lý Kitô giáo về nhân vị, tự do và phẩm giá con người đã góp phần củng cố giá trị sự sống trong bản sắc văn hóa Việt Nam.
III. SỨ ĐIỆP KITÔ GIÁO VỀ SỰ SỐNG – NẺO ĐƯỜNG ĐỐI THOẠI VỚI VĂN HÓA BẢN ĐỊA
Dân tộc Việt Nam ngay từ khởi thủy đã ý thức tìm về nguyên ủy sự sống, nguồn cội phát sinh dân tộc. Các thị tộc mẫu hệ thời sơ khai tôn thờ vật tổ như nguồn cội phát sinh dân tộc. Truyền thuyết cha Rồng – mẹ Chim của người Việt cổ phản ánh rõ nét tín ngưỡng này. Đến thời kỳ tiếp biến văn hóa Trung Hoa, chính Nho giáo là nhân tố định hình và phát triển tín ngưỡng bản địa thành hệ thống đạo lý chi phối đời sống xã hội và tinh thần dân tộc Việt Nam. Từ yếu tố văn hóa ngoại lai, Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo dần hội nhập và tiếp biến để trở thành những bản sắc văn hóa của dân tộc. Đến đầu thế kỷ XVI, văn hóa Kitô giáo theo chân các nhà truyền giáo du nhập vào Việt Nam nhưng cơ cấu phục vụ công cuộc loan báo Tin Mừng quá nặng nét phương Tây không thể dung hòa với văn hóa bản địa, cụ thể về vấn đề thờ kính tổ tiên. Trong lịch sử Giáo Hội chưa có vấn đề nào gây tranh luận kéo dài như vấn đề này, từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XVIII (1631-1742), qua 10 đời giáo hoàng làm ảnh hưởng sâu rộng đến các xứ truyền giáo. Đặc biệt với tông chiếu “Ex Quo Singulari” (1742) của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XIV cấm hình thức lễ nghi tôn kính tổ tiên, đã làm tổn thương tinh thần trọng đạo hiếu – trung của dân tộc.
Đối với người Việt Nam, tôn kính tổ tiên là một trách nhiệm thiêng liêng của đạo làm con, một hình thức tín ngưỡng phản ánh tâm thức tôn giáo của tâm hồn Việt về vũ trụ và con người: Sự sống tiếp nối và dường như không có sự khác biệt giữa hai lãnh giới sống-chết, cái chết chỉ là một dạng sống mới. Như vậy, tự trong tâm thức, người Việt Nam vẫn luôn khát vọng hướng đến một sự sống viên mãn nơi thế giới vô hình. Tất cả những hình thức tín ngưỡng, tôn giáo bản địa đều chỉ nhằm thỏa mãn khát vọng sâu xa này. Và đây chính là điểm nối kết để Tin Mừng Sự Sống Kitô giáo có thể hội nhập vào bản sắc văn hóa và tâm hồn dân tộc Việt Nam. Bằng nền tảng giáo lý của mình, Kitô giáo có thể trả lời cho câu hỏi về nguyên ủy sự sống bằng một thực tại cụ thể, mang tính ngôi vị là chính Đức Kitô. Lòng kính ngưỡng sự sống của dân tộc Việt Nam phán ánh qua tâm thức thần hóa, khám phá nguyên ủy sự sống nơi những thực tại bên ngoài mà bỏ quên giá trị sự sống mang tính nhân vị. Và đây là điểm khiếm khuyết mà Kitô giáo có thể bổ khuyết, củng cố và phát triển. Tin Mừng Sự Sống Kitô giáo với trung tâm điểm là Đức Kitô – Lời ban Sự Sống sẽ là nền tảng luân lý định hướng cho việc tôn trọng phẩm giá, nhân vị và sự sống con người trong xã hội Việt Nam hôm nay.
1. Thiên Chúa – nguyên ủy sự sống
“Sự sống của con người là thánh thiêng, bởi vì ngay từ nguồn gốc nó bao hàm “hành động sáng tạo của Thiên Chúa” và mãi mãi nằm trong một mối quan hệ đặc biệt với Đấng Tạo Hóa, cứu cánh duy nhất của nó”.[28]Như vậy đối với Kitô giáo, sự sống không còn là một ý niệm phổ quát, ngoại tại nhưng là một thực tại mang tính ngôi vị cụ thể. Con người được tạo dựng vì chính mình và mỗi nhân vị là một phản ánh sống động về chính Thiên Chúa, nguyên ủy sự sống. Con người không có quyền trực tiếp can thiệp vào hành vi hủy diệt sự sống vì sự sống là giá trị thánh thiêng phản ánh chính sự bất khả xâm phạm của Đấng Tạo Hóa (x. St 1, 26-28).
Kinh nghiệm lịch sử cứu độ cho chúng ta thấy rằng những biến cố Cựu Ước chính là hình ảnh tiên báo và cuối cùng được hoàn trọn nơi chính Đức Kitô. Sứ điệp về Sự Sống đã được chuẩn bị ngay trong Cựu Ước với biến cố Xuất Hành, trọng tâm kinh nghiệm đức tin của dân tộc Israel. Trước mối đe dọa tàn sát tất cả hài nhi sơ sinh của vua Pha-ra-ô và sự giải thoát đầy yêu thương của Thiên Chúa, dân Israel nhận ra rằng: sự sống khởi phát từ chính Thiên Chúa và con người không ai không có quyền định đoạt về sự sống của chính mình và của người khác. Kinh nghiệm này lớn dần trong tương quan tín trung với Thiên Chúa. Dân Israel nhận biết được rằng, chính Thiên Chúa là nguồn cậy trông và là Chủ Tể sự sống “Tất cả những vật Chúa ban đều tốt trong thời chúng; Chúa đã đặt trong lòng chúng tổng số thời gian” (x Gv 3,11).
Sự sống con người là một điều thiện hảo vượt xa sự sống của bất kỳ sinh vật nào. Dù được tạo nên từ bụi đất (x. St 2,7; 3,19; Tv 103) nhưng con người là họa ảnh biểu lộ vinh quang Thiên Chúa, là dấu chỉ về sự hiện diện của Người (x. St 1, 26-27; Tv 8, 6). Con người được trao ban phẩm giá trổi vượt vì có sự nối kết mật thiết giữa con người và Đấng Tạo Hóa nên mình. Chính sự nối kết này là dấu ấn thần linh thôi thúc con người vươn đến nguồn mach sự sống phát sinh chính mình là Thiên Chúa.
Bằng cách trình bày tổng quát nền tảng sự sống trong Kinh Thánh như lối mở tiếp cận, kết nối với giá trị sự sống trong văn hóa bản địa. Từ tín ngưỡng Tô-tem vật tổ, tín ngưỡng phồn thực nông nghiệp cho đến tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, ý thức tôn trọng sự sống là một thực tại minh nhiên trong tâm thức dân tộc Việt Nam.
Từ cảm thức bất lực trước sức mạnh tự nhiên, dân tộc Việt Nam thuở ban sơ đã cảm nhận có một hồn sống hiện hữu và chi phối cuộc sống con người. Vì vậy, tất cả thế giới hiện tượng được quy gán thành những vị thần có thể chở che, bảo vệ. Và tín ngưỡng nhiên thần xuất hiện. Nhưng cuộc sống gắn liến với thiên nhiên của cư dân nông nghiệp khiến các tộc Việt thuở ban sơ nhận ra rằng: sự sống không phải là một thực tại ngẫu nhiên nhưng có sự tiếp nối liên tục qua việc truyền sinh như quy luật tất yếu của vũ trụ. Tâm thức này dần ăn sâu và phát triển thành một hình thức tín ngưỡng đặc trưng của văn hóa nông nghiệp lúa nước là tín ngưỡng phồn thực.
Tín ngưỡng phồn thực quan niệm có một sức mạnh siêu nhiên là nguyên ủy phát sinh sự sống. Tín ngưỡng này bị chi phối bởi vũ trụ luận phương Đông về âm-dương lưỡng cực. Sự hòa điệu âm dương trong quan niệm Đông phương là căn nguyên sự sống. Bất lực trước sức mạnh tự nhiên, lý trí con người có xu hướng trừu xuất thành những ý niệm phổ quát để kính ngưỡng tôn thờ. Vì vậy, tín ngưỡng phồn thực đã biểu tượng hóa giá trị sự sống thành một sức mạnh ngoại tại chi phối cuộc sống con người. Tâm thức này khiến các tín ngưỡng bản địa mang nặng màu sắc lễ nghi thờ phượng mà thiếu đi chiều kích nhân vị, phẩm giá con người vẫn chưa có một vị trí xứng đáng trong lãnh giới tinh thần và thiết chế xã hội phong kiến Việt Nam. Vì vậy, Kitô giáo với chủ thuyết nhân vị là một đóng góp quan trọng cho việc thăng tiến giá trị con người. Kitô giáo đem đến một nhãn quan hoàn toàn mới khi trình bày con người là một hữu thể cứu cánh tại thân và mọi nhân tố ngoại tại chỉ có giá trị trong mối tương quan với con người. Sự sống là giá trị thánh thiêng bởi nó được gắn kết với con người như một họa ảnh của Thiên Chúa. Nếu tín ngưỡng phồn thực trong văn hóa bản địa quan niệm sự sống như một sức mạnh ngoại tại mà con người phải kính ngưỡng thì Kitô giáo đưa văn hóa Việt Nam trở về giá trị căn bản là con người.
a. Chiều kích nhân vị – sự đóng góp của Kitô giáo
Thực tại về con người là vấn nạn của lịch sử: con người là ai? Có rất nhiều quan niệm khác nhau về nó. Nhưng tất cả chỉ là những ý niệm cực đoan thái quá khi tán dương con người như một chuẩn mực tuyệt đối hay tiêu cực yếm thế khi tỏ ra hoài nghi, lo lắng về ý nghĩa hiện hữu của con người. Giáo Hội được đón nhận mặc khải từ chính Thiên Chúa có trách nhiệm trình bày những nền tảng chân lý đức tin về thân phận và giá trị đích thật của con người, những yếu hèn và cả phẩm giá bất khả xâm phạm.
Kinh thánh Kitô giáo xác định con người được tạo dựng “theo hình ảnh Thiên Chúa” có khả năng nhận biết và yêu mến Đấng Tạo Dựng nên mình và được Ngài đặt làm chủ mọi tạo vật trên trái đất (St 1, 26; Kn 2, 23) để cai trị và sử dụng chúng mà ngợi khen Thiên Chúa (Hđ 17, 3-10).[29]
* Con người là thực tại hợp nhất hồn và xác
Xét về thể xác con người là một tổng hợp những yếu tố thuộc thế giới vật chất. Nhờ con người những yếu tố ấy đạt đến tuyệt đỉnh và tự do nội tại của chúng là chính Đấng Tạo Hóa (Đn 3, 57-90). Vì vậy con người không được khinh miệt đời sống thể xác nhưng trái lại phải tôn trọng vì đó là công trình sáng tạo yêu thương của Thiên Chúa. Thân xác sẽ phục sinh trong ngày sau hết để hiệp nhất trong sự sống viên mãn là chính Thiên Chúa. Hơn nữa, niềm tin Kitô giáo khi nhìn nhận có một linh hồn thiêng liêng, bất tử, con người không thể bị mê hoặc bởi một thứ ảo ảnh phát sinh do những điều kiện vật lý và xã hội nhưng không ngừng được thôi thúc tìm đến nguyên ủy sự sống là Thiên Chúa.[30]
* Con người có phẩm giá, lý trí và tự do để kiện toàn công trình tạo dựng của Thiên Chúa
Con người là thực thể cao quý, trổi vượt trên các loài thụ tạo khác bởi con người được thông dự vào ánh sáng trí tuệ của Thiên Chúa. Bản chất tri thức con người phải được kiện toàn nhờ sự hiểu biết.[31] Chính sự hiểu biết này lôi kéo một cách dịu dàng tâm trí con người tìm kiếm và yêu mến những gì là chân, thiện, mỹ. Hơn nữa, tận đáy sâu tâm hồn con người được Thiên Chúa phú bẩm một lề luật thánh hướng dẫn con người yếu mến và thi hành điều thiện cũng như xa tránh việc gian tà. Tuân theo lề luật ấy chính là thể hiện phẩm giá của con người. Lương tâm là điểm sâu kín nhất và là cung thánh nơi con người hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Người vang dội trong thâm tâm họ. Như vậy theo niềm tin Kitô giáo, phẩm giá con người gắn liền với ý chí tuân phục lương tâm trong sự tự do. Con người sẽ đạt đến phẩm giá đích thật mà Thiên Chúa phú bẫm một khi nhờ sự tự giải thoát khỏi mọi kiềm tỏa của đam mê và hướng đến sự toàn hảo là chính Thiên Chúa.
* Con người là hữu thể có cứu cánh tại thân
Trước cái chết, bản năng sinh tồn dày vò con người trong đau khổ và suy nhược bởi nỗi lo sợ bị tiêu diệt đời đời. Mầm sống vĩnh cửu nơi con người không thể giản lược vào nguyên vật chất, nên có xu hướng chống cưỡng lại sự chết. Nhưng Giáo Hội được Mạc Khải từ Thiên Chúa quả quyết rằng con người được Thiên Chúa dựng nên để đạt đến cứu cánh hạnh phúc.[32] Hơn nữa đức tin Kitô giáo còn dạy rằng chính tội lỗi gây nên sự chết nhưng sự chết bị đánh bại dưới ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô. Và con người được mời gọi thông hiệp vào sự sống vĩnh cữu của Người.
Như vậy, giáo lý đức tin Kitô giáo về phẩm giá con người là nền tảng vững chắc có thể định hướng và bổ khuyết chiều kích nhân vị trong tín ngưỡng bản địa tại Việt Nam. Tâm thức tôn trọng sự sống trong tín ngưỡng phồn thực chỉ là trực cảm tự nhiên của con người trước sức mạnh của tự nhiên mà thiếu đi nền tảng siêu hình. Không lý giải được những bí ẩn kỳ diệu của sự sống. Các dân tộc Việt sơ khai đã trừu xuất giá trị sự sống ra khỏi con người và biểu tượng hóa thành một sức mạnh vô hình. Như vậy sự sống trở nên thành phần tách biệt, trổi vượt hơn những giá trị nội tại của con người. Và đây chính là khiếm khuyết mà chủ thuyết nhân vị của Kitô giáo có thể củng cố và hoàn thiện. Kitô giáo không phủ nhận những gì thuộc về bản sắc văn hóa nhưng cố gắng kết nối những giá trị này vào một thực tại cụ thể là con người. Sự sống không phải là một nhân tố ngoại tại, tách biệt nhưng là một thành phần cố kết của con người. Lập trường Kitô giáo về con người không chỉ củng cố cho những giá trị văn hóa bản địa mà còn có thể định hướng cho những thách đố về sự sống trong xã hội hôm nay. Khi sự sống bị nhìn nhận là một khách thể, tách biệt thì con người dễ lạm dụng và thao túng cho những mục đích khác nhau.
c õ ª õ d
Footnote
[18] Hà Thúc Minh, “Nho giáo-vấn đề lý luận và thực tiễn,” tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 4 (2005): tr. 3.
[19] Đại Nam nhất thống chí, tập I (Hà Nội: Khoa Học Xã Hội, 1971), tr. 116.
[20] Trung Hoa hiếu văn hóa chuyên tập, bản Việt ngữ Nguồn gốc chữ “Hiếu” và giá trị hiện đại, Trương Lệ Hồng dịch (Ngũ Châu văn minh, 2004), tr. 71.
[21] Trần Trọng Sâm biên dịch, Luận ngữ viên ngọc quý trong kho tàng văn hóa phương đông, Hà Nội: NXB Văn Hóa Thông Tin, 2002, chương Dương Hóa.
[22] Hà Thúc Minh, “Chữ “Hiếu” từ tín ngưỡng phồn thực cổ xưa đến đạo đức văn minh hiện đại,” Nghiên cứu Tôn giáo, số 4 (2005): tr. 4.
[23] Hà Thúc Minh, “Chữ “Hiếu” từ tín ngưỡng phồn thực cổ xưa đến đạo đức văn minh hiện đại,” Nghiên cứu Tôn giáo, số 4 (2005): tr. 5.
[24] Kỳ Chí Tường, Phật học và văn hóa Trung Quốc (Học Lâm xuất bản xã, 2000), tr. 355.
[25] Xc. Kinh Tâm Địa Quán, quyển 2, Tứ An gồm ân cha mẹ, ân quân vương, ân chúng sinh và ân Tam bảo.
[26] Bản Việt ngữ Lễ ký-kinh điển về việc Lễ, Nhữ Nguyên biên soạn (Đồng Nai, 1996), tr. 237.
[27] Sđd, tr. 238.
[28] Thánh Bộ Giáo lý Đức tin, Huấn thị Ơn ban sự sống (22-2-1987), nhập đề, số 5.
[29] “Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay,” trong Thánh Công Đồng chung Va-ti-ca-nô II (Đà Lạt: Phân khoa Thần học Giáo hoàng Học viện thánh PIÔ X, 1972), tr.743.
[30] Sđd, tr. 746.
[31] Đó là thứ hiểu biết của người sáng suốt, không phải chì hiểu biết chân lý mà con thưởng thức ý nghĩa thâm sâu của chân lý dù chân lý đó là những nhận xét về thiên nhiên, về bản tính con nười hay về thế giới vô hình. Người học thức chưa chắc đã có thứ hiểu biết này, trái lại, kẻ vô học, mù chữ rất có thể lại được hứ hiểu biết đó.
[32] “Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay,” trong Thánh Công Đồng chung Va-ti-ca-nô II (Đà Lạt: Phân khoa Thần học Giáo hoàng Học viện thánh PIÔ X, 1972), tr.749.
---Còn tiếp---