Một Vài Gợi Ý Về Việc Sống Đạo Trong Văn Hóa Việt - Phần 1/5
Lm. Hoàng Sỹ Quý, SJ.
----------
Như ai nấy đều biết, đã có nhiều học giả viết về văn hóa Việt Nam, viết từng cuốn sách một, và hẳn còn nhiều học giả khác tiếp tục nữa. Thế nghĩa là về văn hóa Việt Nam, có quá nhiều cái để nói, nên nói hoài không hết. Mà nếu có cái được nói rồi, thì vẫn có người nói lại được, nhưng khác đi. Bởi lẽ trong văn hóa, chẳng mấy khi có gì “sáng sủa và rõ ràng” hẳn như các ý tưởng của Descartes hay công thức toán học, hầu có thể chỉ đích danh: “Nó ở đây”, trăm phần trăm nó là thế này, chứ không như vậy.
Thế rồi còn những đổi thay nữa chứ. Văn hóa cũng là một thể sống nó sống với con người, mà để sống được, thì nó phải biến hóa luôn luôn, khiến cùng một vùng mà có cái khác nhau, cùng một thời mà cái mất cái còn. Như nước chấm chả hạn, tuy cả ba miền Trung Nam Bắc đều ăn nước mắm cả (khiến nước mắm trở thành một trong những nét đặc trưng của phong tục nước ta), nhưng Bắc thì để nguyên vị mặn, Trung thì chế ớt thật cay, Nam thì thêm ngọt cho dịu bớt. Còn nói về quần áo, nó gần như thay đổi từng tháng, từng ngày. Cái áo dài đặc trưng của người Việt, khi chùng thêm và thêm cúc, lúc lại cộc lốc, thậm chí ngày nay nam giới bỏ hẳn, mà nữ giới cũng đang tấp tểnh theo nam. Cả cái quần lĩnh đen và quần trúc bâu trắng cũng vậy. Đúng là toàn cầu hóa, hay nói cho đúng hơn, toàn cầu Âu-Mỹ hóa.
Chính bởi vấn đề khó thế và mênh mông đến thế, nên tôi đã xin được thu hẹp đề tài, thành “Một gợi ý về v.v”. Mà cũng không phải tất cả các làm Việt Nam, nhưng một nét gì đó của cách ấy. Cố nhiên là phải chọn cái gì sâu một tí, bởi lẽ càng sâu, càng chìm, thì nó càng tổng quát và đổi thay chậm chạp hơn. Như tâm thức (mentality) chả hạn. Vâng, dù Tây hóa đến đâu, người Việt và Á đông nói chung, vẫn có những phản những không giống Âu Mỹ. Người Tây thì, sau khi tranh cãi nảy lửa trong hội nghị rồi, vẫn rủ nhau đi uống cà phê tỉnh bơ, chứ người Việt ta thì sức mấy.
Có điều càng sâu, thì nét văn hóa ấy càng không rõ, khiến diễn tả và chứng minh không dễ gì. Và nếu khá sâu, thì nó càng dễ thuộc những vùng văn hóa lớn rộng. Như văn hóa Hy-La bao trùm cả Hy Lạp, La Mã lẫn các nước Latinh. Dĩ nhiên là Pháp chả hạn vẫn có những gì đặc thù của riêng Pháp, nhưng không vì thế mà Pháp lại không có những gì chung của cả vùng văn hóa Hy-La nói trên. Vùng văn hóa còn có thể lớn rộng hơn thế nữa. Nhất là khi C.G.Jung đưa văn hóa [1] vào sâu tới vô thức, ở đó tiềm ẩn các nguyên tiêu (arkhêtupos) thuộc đại gia đình của nhiều chủng dân, và các nguyên tiêu chung cho tất cả loài người.
Theo tôi, Việt Nam chúng ta nằm ở chỗ giao lưu của ba vùng văn hóa gốc: văn hóa Đông Nam Á phía dưới, văn hóa Ấn Độ mà ta chịu ảnh hưởng qua Phật giáo, qua tiếp cận với các quốc gia Ấn hóa xưa, như Phù Nam, Chân Lạp và Chăm, và cuối cùng, văn hóa Trung Quốc. Các văn hóa của các nước như Pháp đến sau cũng tác động không ít đến bề nổi hơn của chúng ta.
Ở đây, tôi chỉ xin chọn trình bày một cung cách sống và đánh giá rất mềm dẻo mà chúng ta có chung với Trung Quốc và một số quốc gia tiếp giáp Trung Quốc. Đó là Nguyên Lý và biện chứng Âm Dương nó chi phối tư duy và cách sống của chúng ta từ trong ra đến ngoài, từ cá nhân đến xã hội.
Chúng tôi sẽ trình bày bằng cách đối chiếu nó với cách nhìn biện chứng của Phương Tây khi họ tiếp cận thực tại. So sánh với người khác như thế sẽ giúp ta thấy chính mình rõ. Nói như vậy không có ý bảo người Việt khác hẳn người Âu Mỹ đâu. Ai nấy đều nghĩ đàn ông sống lý trí và đàn bà sống tình cảm, nhưng đâu phải vì thế mà đàn ông là thỏi sắt biết đi và đàn bà cần giải phẫu để cấy thêm cái đầu. Bằng chứng là còn có những phụ nữ siêu lãnh như Võ Tắc Thiên xưa của Trung Hoa và siêu thép như M.Thatcher gần đây của Anh Quốc.
BIỆN CHỨNG ĐÔNG TÂY ĐỐI CHIẾU TRONG HIẾU ĐẠO VÀ HÀNH ĐẠO
Để xây dựng một Kitô giáo mang bản sắc châu Á, đã có một số cố gắng, nhưng cá nhân và lẻ tẻ, nên chưa mấy thành công. Như Deleury sống như một bà la môn. Như Monchanin và Dom Le Saux đi vào lối tu và nhập định Ấn giáo. Như Lassalle mở hai trung tâm thiền bên Nhật.
Hội nhập văn hóa trong thần học thì vì khó, nên càng hiếm kẻ tham gia, trừ mấy gương mặt quen thuộc bên Ấn là Panikkar và Amalados, bên Sri Lanka là Pierris…
Có điều các vị này, cả mấy chục năm “trau dồi kinh sử” Tây, nên dù đấu với Tây, họ chỉ biết dùng súng Tây, nghĩa là dù suy Ấn hay suy Tàu, họ cứ áp dụng thứ biện chứng pháp họ quen rồi, nghĩa là hơn kém biện chứng pháp Hegel vốn thiên về loại trừ, đối kháng. Do đó, cái mà thần học Tây phương đã tìm ra thì họ muốn gạch đi, viết lại. Và vì Do Thái giáo, Hồi giáo và Kitô giáo xưa coi dân ngoại như kẻ thù, thì nay trong xu thế đối thoại, Amaladoss gần như muốn loại bỏ tính duy nhất của vai trò cứu thế nơi Chúa Giêsu. Riêng Pierris thì cùng với thần học châu Mỹ latinh, chỉ còn hiểu thứ ngôn ngữ giải phóng của Cựu ước (tách khỏi cách hiểu thiêng liêng hơn nếu quy chiếu về Tin mừng); ngược lại với Tây phương thời Trung cổ, do quá nhấn vào tính cánh chung của đạo mà quên rằng Thiên Chúa của chúng ta đã “thành thịt” giữa cõi trần này.
Chúng tôi không phủ nhận công mở đường lớn lao của các thần học gia nói trên cho một thần học châu Á còn quá non yếu. Chúng tôi chỉ xin lưu ý họ, là tránh đừng đi vào vết xe của Tây phương vốn quá nghiêng về lý tính nên dễ dàng tuyệt đối hóa những kết luận. Chính vì lý do đó mà chúng tôi xin đưa ra đối chiếu ở đây hai cách tiếp cận thực tại của Đông và Tây, cũng là cách sống và đánh giá theo những suy nghĩ ấy.
NHỮNG CẶP ĐỐI NGHỊCH VÀ CÁCH NHÌN BIỆN CHỨNG BÊN TÂY
Để hiểu các thực tại, con người phải thống nhất chúng. Triết gia Hy Lạp cổ đã quy mọi sự vật vào những gì được coi là căn bản làm nên chúng, như nước, khí, lửa, như nguyên tử (atomos) hay đơn tử (monados). Để giải thích làm sao, những gì rời rạc và đơn giản như thế lại có thể làm nên những sự vật phức tạp như ta thấy quanh ta, thì Empedocle (thế kỷ V tr.c.n) đưa vô nguyên lý kép Tán-Tụ, mà ông gọi Ghét và Yêu, với những viên gạch phần nào đa dạng hơn, là Thuỷ, Hỏa, Thổ và Khí. Vâng, khi những viên gạch ấy kết tụ lại, thì có cái nọ cái kia thành hình, còn khi chúng rời ra để tụ lại theo cách khác, thì sẽ có những sự vật mới phát sinh.
Cách suy nghĩ như vậy cũng không có gì khác với Trung Quốc và Ấn Độ. Với học thuyết Sâmkhya Ấn Độ, thì sự tán tụ kia thực hiện trên năm loại gạch Thuỷ, Hỏa, Thổ, Khí, Âkâsa (ête), và, nền tảng hơn, trên tam cách Âm dương lực. Trung Quốc cũng chủ trương, rằng các viên gạch nền tảng nhất là âm dương, với lực tiềm sẵn trong âm dương rồi, khiến đối nghịch thành đối cực (polarisation), sinh bù trừ, hấp dẫn. Còn bớt nền tảng hơn, thì đây là ngũ hành Kim Mộc Thuỷ Hỏa Thổ.
S.Freud lấy lại ý tưởng về cặp đối nghịch Tán-Tụ hay Yêu-Ghét, mà ông gọi cách khác là Yêu-Diệt (Êrôs-Thanatos, với thanatos có nghĩa Chết), nhưng đưa nó vào giải thích sức năng động tâm sinh. Ai cũng biết con người do thể xác mà có hai bản năng: tồn sinh và truyền sinh, nhưng Freud quy hết về hai bản năng nền tảng hơn, là Yêu (hay sinh) và Diệt chúng chi phối mọi sinh hoạt của con người. Vâng, cũng như khi ăn, để thức ăn thành một với mình, rằng phải nhai và dạ dày nghiên nát nó, thì để người yêu thành một với mình, người ta cũng làm đau, thậm chí khi thanatos trội quá, có thể sinh sex-murder, tức dâm sát.
Nếu Freud mang cặp đối nghịch vào năng động tâm sinh libido, thì Hegel và Blondel lại đưa nó lên đầu, vào các ý tưởng. Vâng theo M.Blondel, thì “sức năng động của tâm trí kích sinh ra những ảnh tượng và ý tưởng tương phản”[2]. Thế nghĩa là nếu nghĩ đến Sáng, sẽ có Tối muốn xuất hiện. Và cũng thế đối với sống-chết, hữu-vô v.v. Riêng Hégel đã lợi dụng những ý tưởng đối nghịch từng đôi ấy để thiết lập một phép biện chứng nổi tiếng, tuy không thể nói là của chung phương Tây, nhưng tiêu biểu hơn cả cho cách suy nghĩ của phương Tây. Phép biện chứng này xướng nhất như sau: Hễ có Đề phải sinh Phản đề, để rồi trên nền tảng của hai cái giao nhau mà huỷ nhau đi sẽ sinh ra một cái mới: Tổng đề. Như thế, biện chứng Hégel nghiêng hẳn về loại trừ, đối kháng. Như đối kháng và loại trừ giữa Hữu và Vô. Hữu suông và Vô suông của Hégel chỉ là ý tưởng, mà gặp nhau thì tạo nên Biến dịch. Để cuối cùng chỉ Biến dịch như một thứ Tổng số mới là cái có thực. Để rồi ngay cả Tuyệt đối, Tinh thần, Thiên Chúa cũng chỉ là cái Toàn thể được tạo dần thành do liên hồi biến dịch của thiên nhiên bên ngoài và liên hồi ý thức (về thiên nhiên) của mọi tâm trí hợp kết lại. Nhìn nhận Biến dịch, Bergson cũng phủ nhận những thể đang biến dịch như thế. Và cũng thế, đã nhấn vào tính nội tại của Thiên Chúa, Spinoza phủ định tính siêu việt của Ngài luôn. Và cứ đà ấy, triết học Tây phương hễ nhận tinh thần thì phủ nhận vật chất, hễ nhận thân xác thì phủ nhận linh hồn, và ngược lại. Không phải hết thảy đâu, nhưng là số đông. Và thần học cũng có khuynh hướng giống thế. Như khi nhìn nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa, ngay thời đầu, họ đã gán cho Ngài một thân xác xem như không thực; nhìn nhận Phép rửa là cần để được cứu vớt, họ liền khinh thị lương dân; rồi nay coi có Thánh Thần hoạt động trong nhiều tôn giáo, không ít kẻ lại xem Tin mừng và Giáo hội là không quan trọng nữa.
Ngay trong lãnh vực sống đạo cũng vậy. Vào thời Trung cổ, vì quá đề cao mầu nhiệm thập giá, người ta hạ thấp những giá trị trần thế, như sức khoẻ, tài trí, thông minh, cùng với các giả trí lành mạnh; còn ngày nay khi đã quan tâm đến nhân sinh và môi trường, người ta lại quên mất tính cánh chung và siêu thế của cứu độ, quên rằng con người là những vị-thân (le pour-soi), nên không thể để con người gặp nguy hiểm. Trái lại, họ đã bảo vệ bằng mọi giá những mãnh thú có thể tấn công chúng ta bất cứ lúc nào.
c õ ª õ d
Chú thích
[1] Tuy Jung không gọi đó là Văn hóa
[2] L’action, P.U.F, Paris 1950 tr.130
---Còn tiếp---