Một Vài Gợi Ý Về Việc Sống Đạo Trong Văn Hóa Việt - Phần 2/5
Lm. Hoàng Sỹ Quý, SJ.
----------
CẶP ĐỐI NGHỊCH VÀ CÁCH NHÌN BIỆN CHỨNG CỦA PHƯƠNG ĐÔNG
Như Blondel phát hiện, người ta luôn tư tưởng trong những cặp đối nghịch như Sáng với Tối, Ác với Thiện, Trong với Ngoài, Có với Không v.v. Phương Đông cũng thế thôi.
Có điều nếu phương Tây thiên về lý trí, mà ý tưởng thì sáng sủa, rõ ràng, nên giới hạn rạch ròi, khó dung hợp nhau. Chứ phương Đông thiên về trực giác, cảm nhận, nên những cặp đối nghịch của họ dính sát với thực tại, nhất là với sự sống, do đó nghiêng về bù trừ hơn là mâu thuẫn. Chính R.N.Tagore cũng nhận định như thế, khi ông nói đến âm dương trong đối lập sinh hóa, cái mà sanskrit gọi là Dvandva (nhị lập)[3].
Bởi thế, dù luân lý Khổng giáo chủ trương “Nam nữ thụ thụ bất thân”, người Á Đông vẫn ưa đối đáp nam nữ hai bè, như trong hát trống quân, hát quan họ, và cách hát này còn tìm thấy cả bên Lào và Vân Nam nữa.
Sự đối nghịch hướng hòa ấy sẽ đi vào mọi ngóc ngách của đời sống dù sinh lý hay tâm lý, dù luân lý hay xã hội.
Theo Hoàng đế nội kinh, vì khí dương thanh của trời và âm đục của đất giao cảm khiến cho sinh hóa, điều hòa, và cũng vì hai khí nói trên hợp lại với nhau mà làm nên con người chúng ta, nên khí sinh lý của chúng ta cũng phải tương thông với khí trời đất ấy thì sức khỏe mới tốt, chứ nếu mất thăng bằng âm dương thì cơ thể phải phát bệnh[4].
Nếu ở trong tâm, thì sự thăng bằng và điều hòa ấy là giữa đức Nghiêm âm và đức Ái dương, hoặc giữa Nhân thuộc dương và Nghĩa thuộc Âm [5]. Còn trong thuật trị quốc, để dân an và thuận theo, thì vừa phải có luật pháp nghiêm minh, vừa phải có từ tâm và đức độ.
Lòng ưa xứng đối và hài hòa thấm nhuần sâu xa hồn người Việt, Hoa, đến nỗi nó thể hiện trong cả văn chương và nghệ thuật. Ở hội họa thì đó là sự hài hòa của sơn thuỷ, cùng với cỏ hoa chim chóc. Ở kiến trúc, thì đây là dựng chùa ở bên nước biếc non xanh, xây Càn thanh của vua đối xứng với cung Khôn ninh của hoàng hậu, với điện Giao thái ở giữa để có giao hòa như giữa đất trời. Còn ở thơ, thì đây là song đối. Vâng, sự song đối luôn phải có ở phần chính, phần quan trọng nhất của bài thơ thất ngôn bát cú hay song thất lục bát. Mà đối đây là đối cả ý lẫn lời (cùng với đối bằng trắc), và càng đối hay thì thơ càng tuyệt. Sau đây là một vài thí dụ quen thuộc:
Dấu xưa xe ngựa, hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Hay:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc (quốc quốc),
Thương nhà mỏi miệng cái da da (gia gia).
Người Do Thái thỉnh thoảng cũng đối đấy, nhưng chỉ đối lời mà không thêm ý, tức dùng lời khác để nói lại cùng một ý, rất thô sơ, như:
Con người là chi để Chúa nghĩ đến nó,
Con của loài người là gì để Chúa bận tâm về nó (Tv.8)
Hay:
Một cái chồi từ gốc cây Giessê đâm ra.
Một cái mầm từ rễ cây vọt ra. (Is.11.1)
Chẳng những có đối trong thơ, mà câu đối còn vượt ra ngoài khuôn khổ thơ, do một thứ sính câu đối của cả người Việt lẫn người Trung Quốc, để rồi có mặt ở những chỗ trang trọng nhất trong nhà cũng như vào những dịp lễ lớn nhất như Tết.
Cặp đối nghịch mà tương tác đã phổ biến từ xa xưa, dù chưa có tên Âm Dương, như bằng chứng tìm được trong Kinh Dịch. Căn bản thứ nhất của Kinh Dịch là các quẻ cùng với các vạch dài và vạch đứt. Vạch dài và vạch đứt, hay lẻ và chẵn, tiền thân của âm dương, sẽ nối kết với nhau mà làm nên các quẻ và tất cả. Thậm chí làm nên lưỡng cực âm dương bao quát nhất là Càn và Khôn, hay trời và đất, mà tất cả lệ thuộc vào, như một thứ Mệnh và Đạo.
Hai từ Âm Dương xuất hiện trong Đạo Đức kinh của Lão tử (thế kỷ V tr.c.n), xuất hiện mới chỉ một lần, ở mãi phía cuối, trong chương XLII: “Đạo sinh Nhất, Nhất sinh Nhị, Nhị sinh Tam, Tam sinh vạn vật, vạn vật phụ âm nhi bão dương. Xung khí dĩ vi hòa”.
Nhưng có lẽ Âm Dương có mặt từ rất sớm, như bằng chứng tìm thấy ngay cả trong Kinh Thi, Hoàng Đế trạch kinh, Dịch truyện (truyền) v.v.[6]
Kể từ đó, âm dương ngày càng được nói đến và nói rất nhiều, đến nỗi gần như không một dòng triết lý nào lại không bàn về âm dương hay dựa vào nguyên lý âm dương mà suy luận, suy không những về sự hình thành thế giới, mà còn về con người, về sự sống và đạo làm người, về cả thuật cai trị lẫn xem phong thuỷ.
Về tạo thế, người xưa coi nền tảng của tất cả là Khí: khí âm và khí dương. Nhưng khí để phân thành âm dương và biến hóa được thì nó lại cần đến Lý, cái Lý ấy là “Nhất âm nhất dương”, nghĩa là có âm phải có dương, chúng tương bằng với nhau và tương tác vào nhau để có Xung hay kích động, mà cái đích của sự xung biến không phải là tan, loạn, nhưng Trung hòa: “Vạn vật đều cõng âm bồng dương, do xung nhau mà có được hòa” (Đạo Đức kinh, ch.42). Vâng, trong bất cứ triết thuyết âm dương nào, người ta cũng gặp Dĩ vi hòa, giống như Đạo Đức kinh.
Với Hoàng Đế nội kinh, khí là bản nguyên của thiên địa nhân, nên “khí tương đắc tắc hòa, bất tương đắc tắc bệnh”[7].
Với Hoài Nam tử (178-122 tr.c.n) thì “Âm dương giả, thừa thiên địa chi hòa” (Khí, tr.128-129).
Với Đổng Trọng Thư (179-104 tr.c.n), nguyên khí là gốc của thiên địa nhân, mà đặc tính của nguyên khí là (hướng về) Thuận hòa hay Trung hòa. Mà để có trung hòa thì phải có thăng bằng âm dương: “Hòa giả, thiên chi chính (cốt yếu) dã, âm dương bình dã”[8]. Và sự thăng bằng âm dương ấy phải diễn ra trong trời đất để có mưa thuận gió hòa, để rồi nương theo đường trời phải diễn ra trong xã hội để có thịnh vượng và bình ổn, và đây là phép cai trị đúng đắn gọi là Vương chính. [9]
Với Thái bình kinh (bộ sách kinh điển của Đạo giáo thời Đông Hán) thì “Âm dương cốt ở trung hòa. Đạt tới khí trung hòa thì vạn vật sinh sôi, nhân dân hòa thuận, vương trị thái bình”.[10]
Với Chu Hy, “âm dương biến hóa” khiến “vạn vật sinh sinh” (Chu tử ngữ loại, quyển 74).
Khổng tử, tuy không nói gì về âm dương trong Đại học và Trung dung, nhưng cái hướng Trung hòa của âm dương rất rõ trong toàn cuốn Trung dung, nhất là ở câu: “Trung là cái gốc lớn của thiên hạ, Hòa là chỗ đạt đạo của thiên hạ. Trung hòa đến hết mức thì trời đất yên vị và vạn vật sinh hóa định ổn”. Còn trong Kinh Dịch thì ở Hệ từ thượng (nếu quả Hệ từ là do đức Khổng viết), ngài cũng nói rõ: “Nhất âm nhất dương chi vị đạo” sẽ sinh biến hóa ổn định mãi mãi, “Sinh sinh chi vị Dịch”, để sống theo đó thì là Thiện, thành được theo đó thì là Tính.
Trung hòa nói đây không được hiểu là Tĩnh hòa, hay do Tĩnh mà có, nhưng Động hòa và do Động mà nên: “Xung khí dĩ vi hòa”, nghĩa là do xung động tương giao tương tác giữa hai khí âm dương, khiến hòa đây là sinh sinh biến hóa một cách điều hòa, ổn định. Sở dĩ âm dương xung tác mạnh như thế, vì đối nghịch âm dương không chỉ là đối nghịch ý tưởng lạnh lẽo, mà đối nghịch phân cực (polarisation), như trong lãnh vực điện từ ấy.
Ấn Độ cũng chủ trương biến dịch do tương tác âm dương, với lực (rajas) đã tiềm sẵn trong âm (tamas) và dương (sattva) để có sự hấp dẫn và tương tác đó. Cho nên, tuy ba đấy mà là hai, để tất cả thành nhị lập, dvandva, khiến bù trừ mà sinh sinh hóa hóa.
Vậy, như trên đã nói, đạo âm dương chính là Dịch đạo vậy: “Sinh sinh chi vị Dịch”, “Âm dương tương thôi nhi sinh biến hóa”. Dịch và biến hóa đấy, nhưng không trong xáo trộn mà điều hòa: “Âm dương biến hóa, vạn vật sinh sinh”, với sự tương giao và tương bằng của “Nhất âm nhất dương”. Giống như bốn mùa điều hòa thay đổi, cứ âm cho đến cực là mùa đông thì lại dương lên, dương cho đến cực là mùa hạ thì lại âm tới, cốt cho không gì khắc nghiệt quá. Thật ra thì trời đất hướng về Sinh: “Thiên địa chi đại đức, viết Sinh”, nên cứ để tự nhiên đi thì thiên nhiên biết tự điều chỉnh, để hễ “cùng” thì “tắc biến” để “biến tắc phản” và “phản tắc thông”.
Quả đúng Sinh là sức mạnh lớn nhất của trời đất, khiến cho từ khoáng chất phải sinh ra sự sống, và sự sống ấy tự bảo vệ mình bằng dị ứng, hệ kháng thể, tự phát triển bằng bản năng truyền sinh và tiềm năng tiến hóa hướng về những giống loại ngày càng phức tạp và hoàn hảo hơn, như ngày nay khoa học cho thấy rõ.
Sở dị phương Đông chủ dịch hiếu hòa, hẳn là vì họ nhìn ra sự đối nghịch từng cặp không qua tư tưởng cho bằng qua sự sống với sự giao hợp đực cái và gắn bó nữ nam. Mà đây là đối nghịch không loại trừ, nhưng bù trừ, vừa sâu đậm vừa phong nhiêu. Và đấy là một cái nhìn biện chứng thật sống động, với đích tới là sinh hóa và trung hòa.
Tuy bắt nguồn từ sự sống, mà cái nhìn âm dương kia không dừng ở sự sống, nhưng vượt sự sống về phía những cảnh giới cao siêu và vô cùng bao la, chúng bao trùm hết, từ đất lên trời, từ ngoài vô nội tâm, từ cá nhân sang xã hội. Và đấy là Nguyên lý siêu hình, nguyên lý siêu hình Âm dương, do tác động của nó mà càn khôn liên kết, để rồi tất cả phải nương theo đạo trời đất ấy mà đi vào con đường thái hòa. Vâng, chúng ta đã bước sang lãnh vực của Hình nhi thượng, khiến chẳng những âm dương có mặt trong Khí và Tâm, mà còn trong Lý và Đạo nữa. Vâng, có triết gia đặt âm dương trong khí hay tâm, có triết gia trong lý hay đạo, với khí có trước lý hay lý có trước khí, nhưng lý và khí luônlà hai phạm trù đồng đại, không thể thiếu nhau trong việc hình thành và biến hóa của tất cả. Thế nghĩa là nếu Khí là nền tảng của vật chất, thì Khí cũng không thể hiện diện và biến hóa nếu không trong đường đi và quy luật, nghĩa là dưới tác động của Lý. Vâng, cả Lý và Khí đều cần cho nhau.
Tuy Chu Hy lấy Lý làm gốc của Khí, với Lý có trước Khí, nhưng ông cũng cho rằng Lý không thể hiển ra khi chưa có Khí đi cùng. Nếu Khí hiển là khí âm khí dương, thì Lý hiển lại là Nhất âm nhất dương để âm dương tương xung mà sinh biến hóa. Để rồi liền sau đấy, thể hiện kế tiếp của Lý sẽ là các quy luật. Vâng, Lý được xem như thụôc Hình nhi thượng và Khí thuộc Hình như hạ, chúng phải dựa vào nhau và tương tại với nhau, mật thiết đến nỗi không thể không có Khí để Lý dựa vô, không thể không có Lý để Khí hiện thể và biến hóa (Xx. Khí, tr.365-374).
Ngô Trừng cùng chủ trương với Chu Hy, tuy coi Lý là chúa tể của Khí, nghĩa là nó điều khiển Khí, nhưng Lý Khí phải tương tại mà thành Đạo âm dương của trời đất, của cả đời sống sinh lý lẫn tâm linh. Mà không phải chỉ Khí mới âm dương, cả Đạo và Lý cũng âm dương luôn, thành: “Đạo âm và dương của trời, đạo mềm và cứng của đất, đạo nhân và nghĩa của con người”. Bởi thế, để tất cả biến dịch trong tương thông và ổn định, thì dù nơi vật hay người, dù trong tâm hay ngoài thế, tất cả phải đi vào quy luật âm dương. (Lý, tr.399-403)
Đổng Trọng Thư trước đó cũng coi Lý là Lý âm dương luôn (Lý, tr.135,138). Mà âm dương thì hướng về Bình, tức tương bằng, với Trung hòa là đích nhắm. Do đó, dù trong thuật dưỡng sinh hay vi chính, không thể không cố đạt sự bình ổn âm dương. Có điều trong vi chính, tức cai trị, và có lẽ trong những địa hạt khác cũng thế, Đổng Trọng Thư luôn chủ trương, rằng dương phải nhỉnh hơn âm một tí thì mới tốt; như để dân an, ta phải dùng đức (dương) nhiều hơn là hình (hình phạt, âm). (Lý, tr.137-138)
c õ ª õ d
Chú thích
[3] Xx. Thực hiện toàn mãn (Sâdhana), An Tiêm tr127.
[4] Xx. Trương Lập Văn, Triết học phương Đông: Khí, NXB Khoa học xã hội (bản dịch Việt ngữ) 2000 tr.104-105; 107-109.
[5] Theo tôi, vì Ái và Nhân có khí vị mềm nên coi là âm mới phải, còn Nghiêm và Nghĩa lại thuộc cương nên không thể không là dương.
[6]) Lưu Bái Lâm, Phong Thuỷ, do Đinh Công Kỳ dịch, NXB Đà Nẵng, 2001 tr12-14.
[7] Xx. Trương Lập Văn, Triết học phương Đông: Tâm, NXB Khoa học xã hội 1999 tr.160.
[8] Xx. Trương Lập Văn, Triết học phương Đông: Lý, NXB Khoa học xã hội 1998 tr.135.
[9] Xx. Khí tr.133-149
[10] Idbid tr.197
---Còn tiếp---