Một Vài Gợi Ý Về Việc Sống Đạo Trong Văn Hóa Việt - Phần 3/5
Lm. Hoàng Sỹ Quý, SJ.
----------
NHẬN ĐỊNH CHUNG VỀ BIỆN CHỨNG ÂM DƯƠNG
Qua những trình bày và phân tích trên, chúng ta rút ra được những đặc điểm sau đây của luật âm dương:
1. Hướng hòa. Dù âm dương được nhìn trong hỗ tương đối nghịch, nhưng đối nghịch có nhiều loại: đối nghịch bù trừ như giữa nam và nữ; đối nghịch loại trừ như giữa sáng với tối, ác với thiện, hữu với vô; đối nghịch kháng nhau tích cực như giữa nước với lửa. Đối nghịch âm dương xem ra bao trùm mọi thứ đối nghịch ấy, nhưng nghiêng hẳn về bù trừ và dung hòa, như chính hương vị âm dương nói lên và các học thuyết âm dương tỏ rõ. Vâng, biện chúng âm dương không hướng về tương diệt âm dương, để từ đó sinh ra cái mới như trong biện chứng Hégel, mà hướng về hòa hợp âm dương như giữa cái với đực, từ đó có sinh sinh hóa hóa.
2. Chủ dịch. Vâng, như bốn mùa đẩy nhau để có dịch chuyển, như nam nữ hút nhau để có hóa hóa sinh sinh: “Sinh sinh chi vị Dịch” mà!
3. Lạc quan: Hướng sinh, không hướng tử. Không như S.Freud đặt Erôs (Yêu tức Sinh) và Thanatos (Tử hay Diệt) ngang bằng nhau, Khổng tử trái lại nói về Sinh như cái đức lớn của trời đất, trong khi Đổng Trọng Thư chủ trương dùng đức nhiều hơn hình phạt để cai trị, còn các nhà âm dương luận nói chung thì luôn thuyết về sinh hóa, chứ không nhắc gì đến tử. Thế nghĩa là Á Đông có một cái nhìn thật lạc quan về biến dịch, coi Tử hay Tán chỉ là chiếc cầu nhún để vượt về phía Tụ và Sinh, y như đông tới chỉ là bước phải qua cho xuân xuất hiện.
4. Thiếu hướng cách mạng? Biện chứng âm dương nhắm đích trung hòa, nên xem ra không ưa loạn và cách mạng. Có điều khi tiên liệu “cùng tắc biến, biến tắc phản”, học thuyết cũng đã tiên liệu có loạn và cách mạng nếu không đi vào sự quân bình âm dương, do đó phải tránh những gì cực đoan. Nghĩa là thuyết âm dương muốn ngăn ngừa loạn bằng cách không gây mầm loạn, thế thôi. Riêng với cá nhân, khi công thành danh toại đến đỉnh rồi, họ phải tránh “cùng tắc biến” bằng cách lui về ở ẩn, để khỏi “trèo cao ngã đau”.
5. Thiếu hướng tiến bộ? Do hướng trung hòa và chủ trương điều hòa giống như trong chu kỳ bốn mùa tiếp nối, xem ra biện chứng âm dương thiên về ổn định, hơn là tiến hóa với những bước nhảy vọt giống như trong biện chứng Hégel. Có điều nó cũng không chống lại một tiến hóa điều hòa theo đường lối tự nhiên của trời đất.
6. Hướng trung dung. Chính vì “cùng tắc biến”, nên đạo âm dương là đạo Trung, nó đòi phải ngay thẳng, khách quan, đồng thời tránh những gì thái quá hay bất cập. Theo thuật dưỡng sinh, nếu dương khí quá thịnh thì âm sẽ suy: tình trạng Cách (nghẹt); trái lại nếu âm khí dư thì dương suy: trạng thái Quan (đóng lại).[11]
Tuy âm dương đòi “Nhất âm nhất dương” nên cân bằng, nhưng phương Đông thường nhấn vào âm – hay nói cho đúng, nhu- hơn. Bởi thế trong cai trị, các học giả nghĩ rằng phải Ái, Nhân, Từ hơn là Hình và Pháp. Nếu họ xếp Ái và Nhân vào vị thế dương, thì thật ra, Ái và Nhân thuộc nhu, nên đúng ra là âm mới phải. Mà đạo Nhu thì được nhấn mạnh và đề cao suốt tập Đạo Đức kinh, được đưa áp dụng trong võ Judo và Thái cực.
7. Tính tương đối của âm dương. Âm hay Dương không hề có Âm tuyệt đối hay Dương tuyệt đối. Nghĩa là hễ có Âm liền có Dương, và ngược lại. Nghĩa là âm và dương sóng đôi với nhau và “tương đối” với nhau, tương đối đến nỗi, xét về Lý, thì mỗi bên chỉ là những thế (đứng) đối với bên kia, nên thay đổi tuỳ theo bên kia, cũng như tuỳ theo môi trường và hoàn cảnh. Như ngoài hè là sáng (dương) đối với trong nhà, nhưng lại là tối (âm) đối với ngoài nắng; như gỗ là cứng (dương) đối với bùn, nhưng lại là mềm (âm) đối với đá. Quả đúng thế, như Hoàng Đế nội kinh nói, ở cơ thể con người có khí trong (dương), khí đục (âm), nhưng riêng ở khí trong, cũng có chỗ bớt trong thành âm, và ở khí đục, có chỗ bớt đục thành dương (Khí tr.112). Bởi thế, kẻ có cái nhìn biện chứng âm dương thì luôn trọng chữ Tuỳ, không dễ gì tuyệt đối hóa bất cứ cái chi chi, dù một sự vật, một học thuyết hay nguyên tắc. Mà thật sự, dù phân định rõ như đàn ông đàn bà, cũng chẳng ai nam hay nữ trăm phần trăm đâu, nhất là về mặt tâm lý. Riêng về mặt sinh lý, thì nguồn gốc của tính đực và cái cũng chẳng rõ ràng gì cho lắm. Vâng, dù nữ hay nam ai nấy đều có hormone nam testosterone và hormone nữ oestradiol, và chỉ cần thay đổi phần nào tỷ lệ là có rối loạn ngay, khiến một con chuột đực có thể động ham muốn khi gặp con chuột khác đồng giới tính với mình. Thế rồi, lại còn trường hợp có người sinh ra với hạ bộ nam mà lại với tử cung cùng buồng trứng nữa. Chính vì thực tại không mấy khi rõ nét như ý tưởng, nên người Việt ta, dù có thể chết vì tôn giáo, tổ quốc hay người yêu của mình, nhưng chết vì một học thuyết hay ý thức hệ như Tây thì không dễ.
8. Cân bằng âm dương và ảnh hưởng của văn hóa. Hẳn là từ trong kinh nghiệm về tình yêu lứa đôi và hấp dẫn đực cái mà phương Đông đã phát minh nguyên lý Âm Dương. Thế mà khi yêu nhau, thì người ta muốn hai bên đồng đẳng với nhau, nên dù hoàng tử hay công chúa, lấy ai thì người ấy cũng trở thành phò mã hay công nương luôn. Bằng như nếu không lấy nhau được, ông hoàng thà làm thứ dân để được gần người mình ngày đêm thương nhớ. Chính vì thế, bàn về Âm Dương, người ta không so sánh cái gì hơn cái gì kém, trừ trong trường hợp Âm Dương hiểu theo lý, như sáng tối và thiện ác, chúng vốn chống nhau, chứ không bù đắp cho nhau.
Thế nhưng đôi khi, một số nhà nho cũng có những so đo khác lạ. Rõ ràng trong Kinh Dịch ở phần Truyện và Lời bàn, người ta luôn coi Cứng là dương, Mềm là âm, mà khi nghĩ về cai trị và tu đức, người ta lại đặt Nhân và Ái vốn mềm vào vị thế dương, còn Nghiêm và hình luật vốn cương lại được liệt vào loại âm. Mà lý do chỉ vì để cảm hóa dân, Nhân và Ái phải được coi trọng hơn là sự nghiêm của hình phạt, dù cả hai phải đi đôi với nhau. Và cũng chỉ vì trong tu đức, Nhân được coi là trung tâm và cao đỉnh của tòa nhà đạo đức. Phải chăng vì dòng máu phụ hệ của Hán tộc đã có ảnh hưởng trong việc trọng dương khinh âm, khiến có đảo lộn âm dương này?
Chính bởi những trục trặc nói trên, theo tôi nghĩ, dù học thuyết âm dương đã được khai triển rộng sâu bên Trung Quốc thì nguồn gốc của nó có thể đã nằm ngoài Trung Quốc, ở một trong những vùng thuộc địa mà xưa người Hán gọi là Tây di và Nam man. Cách đây mấy chục năm, Kim Định đã đưa ra giả thuyết, rằng Kinh Dịch là của dòng Lạc Việt. Trước đó nữa, chuyên gia nghiên cứu về văn minh Đông Nam Á, bà E.P.Maspero cũng nhận định rằng triết lý Âm Dương của Trung Quốc đã bắt nguồn từ cảm nhận nhị lập của người Đông Dương (trong đó có Việt Nam) vốn sống thông thoáng về mặt giao tiếp nam nữ, chứ không “nam nữ thụ thụ bất thân” như Trung Hoa[12]. Và đây cũng là quan điểm của giáo sư Phan Đăng Nhật trong Kiến thức ngày nay số 487 (tr.8). Theo tôi, cái sơ đồ của Âm Dương có thể đã được phác họa nên bởi một trong những dân tộc mẫu hệ hay bán mẫu hệ giáo với Trung Hoa, chứ không phải dân Hán và Mãn vốn rất phụ hệ.
Theo Montandin và một số học giả trước ông, thì Đông Dương xưa thuộc vùng “văn hóa cây cung”, mà một trong những đặc điểm của văn hóa này là chế độ mẫu hệ. Ngay gần đây, Đông Nam Á vẫn còn nhiều dân tộc mẫu hệ, và đây là Chăm (Thuận Hải) ở Việt Nam, Khassi ở Assam, Minangkabau ở Sumatra, Negri Sembilan ở Malaysia. Họ giữ tập tục mẫu hệ lâu bền được hẳn là nhờ môi trường thuận lợi xung quanh, môi trường ít là không trọng nam khinh nữ, đến nỗi sau này dù Đông Nam Á có bị Ấn giáo hay Hồi giáo phụ hệ đến thống trị, thì người phụ nữ ở đây vẫn không bị “cấm cung”, ông cậu và ông bà ngoại vẫn được quý mến, và tục gửi rể tồn tại.
Người Việt chúng ta cũng thế, dù bị người Hán đô hộ cả ngàn năm, mà luật Hồng Đức của nhà Lê vẫn không có biểu hiện khinh nữ. Như phân chia tài sản và điền sản thì con cái bằng nhau, dù nữ hay nam, con riêng vợ hay con riêng chồng [13]. Thậm chí về quản trị hương hỏa, nếu thiếu con trai trưởng, thì lập con gái trưởng[14].
Như đã nói trên, sở dĩ nhiều dân Đông Nam Á có thể sinh hoạt mẫu hệ được, là vì môi trường trọng nữ xung quanh cho phép như thế. Để rồi đến lượt chế độ trọng nữ, cũng như trọng giới tích và quan hệ nam nữ thường đi kèm (chứ không vì xấu hổ mà phải che đậy) cũng ảnh hưởng ra xung quanh, khiến chỉ từ những vùng trời này mới có thể xuất xưởng những cảm nhận căn bản đầy hương vị sự sống như nguyên lý và biện chứng âm dương. Vâng, nguyên lý âm dương có thể đã được thai nghén xưa ở miền đất Rồng Tiên, nơi có bình đẳng nam nữ mà phần nào dấu vết còn để lại trong bộ luật Hồng Đức của nhà Lê, nó khác hẳn với bộ luật nhà Nguyễn gần như bản sao của bộ luật Thanh triều.
Một nguồn gốc khả dĩ thứ hai cho thuyết âm dương, đó là vùng Đông Ấn, nơi sản sinh truyền thống tu luyện bằng phối hợp vợ chồng. Và đây là Mật giáo (Tantra), nó ảnh hưởng sang Ấn giáo thành Sakti-giáo và sang Phật giáo Tây Tạng thành Phật giáo Mật Tông. Và chắc cũng do cùng một ảnh hưởng ấy mà có Đạo giáo Trung Quốc, để rồi qua Đạo giáo có nguyên lý và biện chứng âm dương này.
Nếu chế độ phụ hệ Hán tộc khiến đôi khi do mặc cảm tự tôn mà người ta đặt nhu vào vị thế dương, để có thể vẫn coi dương là cao hơn, thì ngược lại, tính tương bình tự nhiên của âm dương chắc cũng ảnh hưởng đến tâm tư khiến họ bớt khinh rẻ nữ tính đi. Trong khi đó, chế độ nghiêng về mẫu hệ lại khiến dù trọng âm dương luận, người ta vẫn nghiêng về âm nhu để phát hiện nguyên tắc “Nhu thắng cương” như trong Lão giáo.
9. Đạo Âm Dương thuộc Hình nhi thượng. Như ở phần cuối tiểu đề trước chúng ta đã xác định, Âm Dương không chỉ là khí âm khí dương, càng không chỉ là đực cái hay nam nữ. Âm Dương đã được siêu hình hóa để thành Lý, tức nguyên lý, và Đạo.
Hơn nữa, cái Đạo và Lý ấy không dừng ở vật chất và sự sống, mà bao trùm hết, tới tận Trời (Kiền) và toàn bộ hiện hữu. Và như thế, con người không tách riêng. Nó thuộc về vũ trụ và nó phản ánh Đạo Trời thành Tính ở lương tri. Nên về phía Trời thì lặng nhìn vô nội tâm, nó hiểu được Thiên mệnh; nhìn ra ngoại thế, nó hiểu mình thuộc hoàn vũ. Do đó mà để khoẻ mạnh, người ta phải sống thuận với môi trường; để bình an và tiến phát, người ta phải quan tâm đến phong thuỷ.
c õ ª õ d
Chú thích
[11] Thật ra giải thích Trung dung là Justum medium có lẽ hợp hơn với Trình tử và phần đông, nhưng nếu phân tích kỹ câu: “Hỉ nộ ai lạc chi vị phát, vị chi Trung, nghĩa là khi chưa xảy ra biến cố, chưa có phản ứng gì, do đó cũng chưa có thái quá hay bất cập, thì đấy gọi là Trung. Vậy Trung không thể chỉ là tránh thái quá hay bất cập. Điều ấy càng rõ với câu sau đó: Phát nhi giai trúng tiết, vị chi Hòa: biến cố xảy ra rồi mà mừng giận đúng mức cần (đối với biến cố ấy), chẳng cứ mừng giận tới đây, thì đó gọi là Hòa, nghĩa là Đạt đạo (đúng với lẽ tự nhiên). Vậy Trung có gì giống như chữ Indifferentia, Bất thiên, không thiên lệch do tự ái, thành kiến, khuynh hướng bản năng tức khách quan vậy.
[12] Thậm chí Eveline Porée Maspero, trong bài phê bình một cuốn sách của G.Coedès, còn nghĩ rằng ngay chính văn minh Trung Quốc cũng bắt nguồn từ phía Nam (Xx Tạp chí Anthropos số 59 1964).
[13] Quốc triều hình luật, khoản 314, 375, 376, 388. Hồng Đức thiện chính thư, 84.
[14] Quốc triều hình luật, 391 Hồng Đức thiện chính thư, 1, 2, 6, 127, 320.
---Còn tiếp---