Một Vài Gợi Ý Về Việc Sống Đạo Trong Văn Hóa Việt - Phần 5/5
Lm. Hoàng Sỹ Quý, SJ.
----------
BIỆN CHỨNG ÂM DƯƠNG TRONG HIỂU ĐẠO VÀ SỐNG ĐẠO
Kitô giáo xem như có gì rất hợp với đạo âm dương. Kitô giáo vốn chống lại những học thuyết mang lý trí với các ý tưởng rõ ràng của nó đặt lên ngai thờ. Cũng chống lại các ý niệm tĩnh và trừu tượng như thế, một người Tây (gốc Do Thái) là Bergson vốn chủ trương Trực giác, để qua trực giác, ông lấy Dịch (devenir), mà ông gọi Trớn sống (Élan vital), làm cái duy nhất có thực. Còn Charles Fourrier, nhờ hiểu thấu Kitô giáo mà không coi những gì đối nghịch có thể chống phá nhau. Vâng, theo triết gia này, hòa điệu của những thái cực (extrêmes) chính là đường đi của Thiên Chúa. Một triết gia khác hơn thế, nghĩ rằng “Kitô giáo là nhất tính của những gì đối nghịch” (Le christianisme, c’est l’unité des contraires). Cũng cùng trong sự thâm hiểu Kitô giáo ấy, Teilhard de Chardin đã nhấn vào sự nội tại của Thiên Chúa giữa lòng sự sống, khi mà vào thời ấy, vì quá đề cao tính siêu việt của Ngài, người ta quên mất rằng Lời Thiên Chúa đã nhập thể. Theo Teilhard, sự nhập thể này, cùng với con người thiêng liêng, đã được Thiên Chúa nhắm ngay ở điểm khởi đầu của tạo thế, điểm 0 của Bigbang theo cách hiểu của vật lý học ngày nay.
Quả đúng là không thể hiểu đủ Kitô giáo nếu không nhìn nó trong đối nghịch bù trừ âm dương. Tôi muốn nói âm dương ở vị trí Hình nhi thượng, tức nguyên lý siêu hình. Và như thế, chúng ta có thể bắt đầu ngay với Thiên Chúa. Chúng ta cứ lo giới tính hóa Thiên Chúa, mà không biết ngay từ đầu chúng ta đã làm vậy rồi. Chúng ta chả gọi Thiên Chúa là Cha, và nhìn Ngài như một nam nhân, một ông lão đấy sao? Bằng chứng rõ nhất là, ở các tiếng Ấn-Âu với danh từ gôm hai giống đực cái, hay ba giống đực, cái và trung tính, từ Hy ngữ Theos, La ngữ Deus, Pháp ngữ Dieu đều giống đực cả. Chỉ có Ấn Độ giáo đặt tuyệt đối thể Brahma của triết học ở giống trung tính, nhưng trong tôn giáo dân gian, thì Brahma trung tính là không được nhắc đến, mà chỉ Barmâ giống đực hay Hóa công mới có mặt bên cạnh các thượng thần nam giới là Visnu và Siva. Trong Kitô giáo, thể theo cách hiểu của con người, Lời nói về Thiên Chúa khi thành người cũng thành người nam luôn. Mà thật ra ngay trong Cựu ước, Yahveh tuy được gọi là Cha, được coi là Hôn phu của Dân Chúa đấy, mà đôi khi cũng được diễn tả trong thái độ và cách nói của người mẹ.
“Ta sẽ cho con bú, sẽ bồng con vào lòng, sẽ đu đưa con trên đầu gối. Như người mẹ nựng con trai mình thế nào, Ta cũng vỗ về con như vậy…” (Is.66.12-13)
Lại theo Evdokimov, sở dĩ trong vĩnh cửu thì Cha sinh Con, mà trên cõi đời, sinh con lại là mẹ, ấy bởi vì người mẹ chính là âm bản (négatif) trong thời gian của Cha trên vĩnh cửu đấy. Thế có nghĩa Chúa Cha chính là Chúa Mẹ. Riêng Thánh Thần thì nay đã được thần học nữ quyền (feminist theology) tái khám phá là từ mẫu rồi. Vâng, Thần khí chính là mẹ khi Ngài sinh ta làm con Cha trong đời sống siêu nhiên: “Thần Khí của Con được sai đến trong lòng ta kêu lên Abba, Cha” (Gal.4.6).
Còn để hiểu Chúa Giêsu, chúng ta luôn phải giữ cân bằng hai vế sử tính và huyền nhiệm, thiên tính và nhân tính; và về mầu nhiệm của Ngài, cả hai mặt một bên là nhập thể, bên kia là thánh giá và phục sinh. Hễ lệch nghiêng bên nào, chẳng những lạc đạo mà còn nguy hiểm cho sống đạo nữa, khiến hoặc không đếm xỉa đến các giá trị tự nhiên và trần thế như vào thời trung cổ, hoặc như ngày nay chỉ quý trọng con người, chỉ muốn xây dựng xã hội thành một thiên đường tại thế thôi…
Với Giáo hội cũng vậy, Giáo hội ấy phải được giữ trong thế cân bằng giữa hai mặt hữu hình và vô hình, đoàn sủng và cơ chế. Công giáo Việt Nam quá nhấn vào tính cơ chế, đến nỗi biến chữ Cộng đồng thành Cộng đoàn và kêu giáo hội địa phương là Giáo đoàn, nghĩa là đoàn thể có tổ chức. Trong khi ấy thì thánh Phalô và Gioan trong Khải huyền lại gọi là giáo hội: “Giáo hội người Thessalonica”, “Giáo hội tại Ephêsô”, “Giáo hội ở Corinthô”, “Bảy giáo hội tại châu Á”, v.v Có nghĩa là chính Giáo hội viết hoa đang hiển hiện tại Corinthô hay Êphêsô, thậm chí tại mỗi gia đình, như có giáo phụ gọi gia đình Kitô giáo là “giáo hội tại gia” (ecelesia domestica). Vâng, Giáo hội của Chúa luôn hiển hiện bất cứ đâu người ta họp lại nhân danh Ngài, dù để cầu nguyện hay sống đạo: “Khi hai ba người họp nhau nhân danh Thầy thì Thầy ở giữa họ” (Mt.18-20)…
Cũng vì còn quá nhấn vào cơ chế, do đó quyền hành, nên tín hữu Việt Nam trở nên thụ động, không tích cực góp sức vào việc tông đồ và truyền giáo như bên Hàn Quốc, cũng chẳng dám có sáng kiến gì như trong lãnh vực phụng tự v.v. Bởi cơ chế đang mạnh, mà đoàn sủng quá yếu, nên giáo quyền cần nhập cuộc để khuyến khích việc Hội nhập văn hóa. Vâng, để khuyến khích hơn là kìm hãm. Và đó là áp dụng nguyên tắc cân bằng âm dương. Và cũng nương theo quy luật âm dương, về phía người dưới, dù thiện chí đến mấy, họ cũng nên dè dặt một tí, bởi nếu đi quá thì “Cùng tắc biến, biến tắc phản…”, giáo quyền vì lo vỡ bờ mà đóng cửa đập lại, và thế là Hội nhập văn hóa cũng sập tiệm mất.
Riêng về sống đạo, tôi đã nói dài dài trong hai tập Thần học thiêng liêng, nhất là ở phần đầu. Dưới đây, tôi chỉ xin lược lại vài ba điểm.
Về cân bằng âm dương, hãy nắm chắc cả hai bên: siêu nhiên và tự nhiên, nhập thế và xuất thế, tự tin và tin vào Chúa, tự trọng và coi mình như đứa bé trước mặt Chúa; thế rồi cầu tiến với bảo cổ, sống đạo tự mình với sống đạo cộng đồng; và sau cùng, cân bằng giữa nhu với cương, nhưng nhu mạnh hơn một tí.
Đối với Thiên Chúa, hãy giữ đúng vị thế chí âm trước Chí dương bằng đức tin theo ý nghĩa Kinh thánh, nghĩa là hạ mình hết mức, quy thuận hoàn toàn. Một cách cụ thể, hãy cụp mắt xuống để thấy Chúa lớn cao vô tận.
Còn về sống đạo, đừng quá lo cầu nguyện mà quên đưa Tin mừng vào cuộc sống. Lại trong cầu nguyện, cũng đừng lẫn cầu nguyện với đọc kinh, dù chúng ta có thể cầu nguyện bằng đọc kinh.
Khi sốt sắng và sùng đạo, người ta dễ coi thường cái gì là tự nhiên, như quan hệ gia đình, tình yêu trai gái, sức khoẻ và sắc đẹp, thông minh và tài giỏi v.v. Nhưng sống đạo đâu phải sống trên mây, mà sống từ chính con người tự nhiên của mình, cùng với khí chất và năng khiếu mà ta không thể thay đổi, nhưng chỉ có thể lèo lái và hướng dẫn để đi hết con đường của ta dưới ánh sáng Phúc âm. Và sống đạo chính là siêu nhiên hóa những quan hệ và tình cảm do tự nhiên mà có đó. Để rồi dù tu hay tục, ta luôn biết lợi dụng tất cả cho con đường đã chọn, đồng thời khiến chúng bổ túc cho nhau vì sự tròn đầy của Huyền thân Chúa. Trước đây bên Tây, người ta trọng tu mà khinh tục, nay thì ngược lại. Tại Việt nam bây giờ, người ta vẫn còn sống như Tây thời trung cổ, để chỉ kính các cha, các nữ tu, và coi nên thánh hay làm tông đồ không phải việc của tục gia. Ta nên nhận định đúng, nên thánh chính là sống thật tốt ơn gọi của mình, dù tu hay tục. Chỉ có điều đi tu thì được huấn luyện kỹ và có nhiều phương thế hơn, thế thôi. lại nữa, để nên thánh, thì dù tu hay tục, ai nấy không chỉ sống vì Chúa, mà vì Chúa và bằng những cách khác nhau, còn phải lo đến vận mệnh quốc gia và thế giới nữa. Ngoài ra, chúng ta cũng đừng nghĩ hễ khiêm nhường và tin tưởng là phải bỏ tự tin và tự trọng, nhưng dung hòa giữa hai đòi hỏi xem như đối nghịch đó. Lại cũng đừng vì nương vào Chúa mà không dám phiêu lưu, táo bạo, mà ngược lại, bởi nương vào sức Chúa nên càng phải lớn mật gấp trăm.
Nói về sùng đạo, thì không thể có sùng nếu không “ướt át” một tí, nhưng ướt mà ướt sũng thì sẽ lệch đạo và khiến trí giả xa đạo. Chả hạn như do đó mà biến đức Maria thành một vị thần bên Chúa dù dưới quyền Thiên Chúa. Cứ ướt đi, nhưng phải lấy cái lý của thần học mà chỉnh hướng cho cơn bốc của con tim. Thế nhưng cũng đừng “lý” quá, vì lý quá sẽ sấy khô con tim ấy và bơm căng cái Tôi lên.
Sống đạo và sùng đạo tới đỉnh cao nhất của nó sẽ chuyển từ kinh nghiệm thủ đắc sang kinh nghiệm thiên phú, tức trời làm hoàn toàn. Tôi có ý nói đến huyền nghiệm (expérience mystique). Suốt cho đến khi chết năm 1973, Henri Le Saux O.S.B đã cố dung hòa hai huyền nghiệm của ông: huyền nghiệm Advaita (vô phân) của Upanisad và huyền nghiệm Dvaita (hữu phân) của Kitô giao. Thật ra thì Kitô giáo có cả kinh nghiệm Vô phân lẫn Hữu phân, như về Thiên Chúa của thánh Ignace de Loyola, khi thì ngài thấy Thiên Chúa thành ba, khi lại thành một (một Hiện hữu) với biểu tượng là hình cầu trắng hay hình tròn trắng. Còn giữa Chúa với hồn? Thì thánh Augustin đã chẳng gọi “Thiên Chúa sâu hơn chỗ sâu nhất của tôi”, tức “trong tôi” (antara-âtman) nhưng lại “siêu tôi” (parma-âtman), cũng là “cao hơn chỗ cao nhất của tôi” (hữu phân). Còn giữa Thiên Chúa với thụ tạo nói chung? Xin thưa, thử hỏi thánh nào đạt tới cảnh giới Hôn nhân thiêng liêng, mà lại không luôn thất tất cả trong Chúa và Chúa trong tất cả: “Nơi Ngài hết thảy chúng ta hiện hữu và sống động”?
Kitô giáo không chỉ là đạo của từng cá nhân, mà còn là đạo cộng đồng, bởi Giáo hội là huyền thân của Chúa Cứu thế. Và tuy là chi thể Chúa Giêsu, nhưng mỗi chúng ta vẫn là những bản vị bất khả thông, khiến chúng ta không thể sống đạo kiểu bầy đàn như hiện nay tín hữu lắm người đang sống. Chúng ta phải tập sống đạo tự mình và tạo lấy cho mình một chân dung riêng, trong khi vẫn nhớ rằng tất cả chúng ta đều liên đới siêu nhiên với nhau trong Huyền thân của Chúa.
Điều cần thiết nữa là chúng ta hãy dung hòa cầu tiến với bảo cổ. Để hội nhập văn hóa giữa hướng đi toàn cầu hóa nó cũng gần với toàn cầu Âu Mỹ hóa hôm nay, chúng ta cần phải trở về truyền thống văn hóa của mình khi mà truyền thống ấy từ lâu bị bóp nghẹt không thể tiến cho kịp thời đại; do đó một đằng chúng ta phải học lại những hình thức và nền nếp cũ, mặt khác phải đi vào cốt lõi của chúng để có thể đơn giản hóa đi cho hợp với cách sống hôm nay. Thí dụ trong việc bày tỏ niềm cung kính, Công giáo ta từ mấy trăm năm đã theo Công giáo Tây mà quỳ gối thẳng người. Thế mà cúi đầu và cúi mình mới nói lên được tâm tình ấy của chúng ta, như Hàn Quốc và dân Nhật ngày nay vẫn còn làm như vậy. Có điều chúng ta có thể bỏ đi những gì quá cầu kỳ trong vái lạy, như cửu bái và tam quy cửu khẩu. [20]
Đứng về mặt tư tưởng, dung hòa là cách tốt nhất để làm giàu cho mình. Cũng như một người dù xấu cũng có vài ba điểm tốt, thì một học thuyết dù sai cũng có một số cái đúng, đúng mà có khi lại mới, khiến có thể lấy mang dung hòa với những ý tưởng tuy chắc mà cũ rồi, khiến hai đằng bổ sung cho nhau vì bước tiến của Hội thánh chúng ta. Giống như K.Rahner, vào thời mà Công giáo đang kỵ duy tâm và hiện sinh chủ nghĩa, đã dám lợi dụng học thuyết của Kant và Heidegger để xây cho mình một trường phái hoàn toàn mới: Thần học siêu nghiệm. Hay như Teilhard de Chardin, trong lúc Kitô giáo còn nhiều nghi ngại đối với học thuyết tiến hóa, đã nhờ thuyết tiến hóa mà, qua vật chất và sinh cầu (biosphère), nhìn ra được (tinh) thần cầu (nooshpère), với điểm Omega là Đức Kitô. Đứng về mặt thực hành thì các cần dung hòa nhất là giữa nhu và cương, thường với nhu chiếm ưu thế, đúng với khuynh hướng chung của Á châu vốn hướng về Vô và Vô vi, vốn quen với nguyên tắc “Nhu thắng cương”, như tôi từng đã trình bày trong “Con đường nước” ở Thần học thiêng liêng chương 5. Và đây là việc nương theo xung động (plusion) để sống đạo hơn là đối đầu với nó, y như thuyền buồm nương vào sức gió để đi con đường của mình. Đây cũng là dung hòa giữa các đức cương nhu trong luyện đức tu thân, là sự đối xử và ứng xử bên ngoài khi cương khi nhu chúng phụ trợ cho nhau, như thánh Phan Sinh Salê nói: “Nắm tay sắt trong găng tay nhung”. Xưa nay trong cai trị cũng như trong giáo dục, chúng ta đã quen với phương pháp khoa học từ Tây mang tới nó coi giáo dục giống như sản xuất, nghĩa là bắt tất cả những người thụ giáo vào chung một khuôn cho tiện và để ra lò cho nhiều, cho nhanh. Cách làm ấy không giống với cách làm của Chúa cũng như của Khổng tử xưa, coi con người căn bản khác nhau, nên phải tuỳ người mà áp dụng phương thức cũng khác nhau, nhất là đối với những tâm trí và tâm hồn đặc biệt. Tốt hơn hết, chúng ta nên vừa có khuôn chung cho tập thể, vừa bổ túc nó bằng phương thức tuỳ cho mỗi cá nhân nữa.
Trong cách sống, cách tu luyện và phê phán của mỗi người, thì khuôn là nguyên tắc. Không thể không nguyên tắc, và áp dụng nguyên tắc thì phải chặt. Nhưng “nguyên tắc quá” thì dễ cứng nhắc không thể xoay sở và ứng phó kịp với các hoàn cảnh muôn mặt và đổi thay luôn luôn của cuộc sống. Nên vừa phải có nguyên tắc, vừa phải thoát nguyên tắc khi cần, nhất là trong những trường hợp đặc biệt. Vâng, dù đây là nguyên tắc đạo đức nó hướng dẫn cuộc sống cá nhân, dù đây là nguyên tắc luân lý xoay quanh các vấn đề của xã hội. Vâng, phải chặt trong nguyên tắc (cương), nhưng áp dụng thì đôi lúc phải uyển chuyển.
Mềm dẻo và Tuỳ, đó là cách làm rất Á đông. Một trong những lãnh vực quan trọng phải ứng dụng Tuỳ là thời đại và vùng trời, như Việt Nam chúng ta quen nói: “Đào giang tuỳ khúc, nhập gia tuỳ tục”, “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”. Giáo hội xưa vì đã không đuổi kịp thời đại, nên với đà tiến khoa học, Giáo hội ngày càng tách khỏi thế giới, với vụ án Galillê vào thế kỷ XVII và sự ra đời của thuyết tiến hóa vào thế kỷ XIX. Sự thờ ơ hôm nay đối với khoa học mới, như khoa vật lý lượng tử và khoa sinh học phân tử chúng tìm về nguồn gốc và nền tảng của vật chất và sự sống, sự thờ ơ ấy khiến vì vô tri mà ta cứ bám mãi vào những quan niệm lỗi thời của chúng ta, cả về vật chất, bản thể sự vật, lẫn về không gian, thời gian và bản chất thân xác con người”. Thêm vào đấy, hướng đi bảo thủ, nhất là duy bản chủ nghĩa (fondamentalism) của một số người sẽ càng làm cho thế giới quay lưng lại với chúng ta như trước công đồng Vatican II. May mà những hướng đi này nay chỉ mạnh ở một hai tôn giáo khác thôi. Cách tốt nhất với chúng ta, đó là hãy táo bạo Đón thời chứ không chỉ lúi cúi chạy sau thời. Tôi có ý nói, đi trước thời bằng một tầm nhìn luôn có tính tiên tri, ngôn sứ. Cũng tiên tri, ngôn sứ như Thầy và Chúa của chúng ta, Ngài đã mạnh bạo đưa ra một giáo lý mà người đồng thời nghe Ngài đã không thể hiểu, coi là chói tai!
NHỮNG GÌ TRƯỚC MẮT CẦN HỘI NHẬP
Như tôi đã trình bày trong phần khai lộ, về Văn hóa Việt Nam có quá nhiều cái để nói, và về Hội nhập văn hóa cũng vậy luôn. Nên tôi đã xin phép rút lại, chỉ trình bày một trong những nét tôi cho là tối cơ bản, và đây là cái nhìn biện chứng âm dương trong hiểu và sống đạo. Có điều sang đến phần Hội nhập cụ thể, không thể tôi không nới rộng đôi chút, về những gì, theo tôi nghĩ, trước mắt phải làm ngay, dù có cái không hẳn trong tầm ngắm của nguyên lý âm dương. Bù lại, tôi sẽ cố đưa nguyên lý ấy vô như phương cách thực hiện.
Trước hết về phụng vụ, cần đổi ngay cách tỏ lòng cung kính cho phù hợp với truyền thống Á Đông, đồng thời điều chỉnh phần nào cơ cấu thánh lễ cho hòa nhập nghi thức tế của người Việt, nhất là tế Nam giao.
Để tỏ lòng cung kính, người Á Đông không thể không uốn lưng, khấu đầu, ngược lại với cách bái quỳ ngay lưng và nhìn thẳng vào mắt của người Âu Mỹ. Hằng ngàn năm nay chúng ta quen làm như vậy rồi, nên chỉ làm như vậy, chúng ta mới cảm nhận niềm kính cẩn. Vâng, dù hôm nay tại những nước đã Âu hóa nhiều như Hàn Quốc, Thái Lan, Nhật Bản v.v, người ta vẫn cúi mình sâu như vậy trước người trên, nhất là trước tổ tiên và thần thánh. Tại Việt Nam, các nữ tu cũng dạy các em Mẫu giáo làm thế, nhưng các dì lại không được làm thế khi vô nhà nguyện, nhà thờ.
Những cử điệu khác, cả cách nói nữa, thì chưa ăn sâu đến vậy đâu. Có điều những gì đã lâu đời lặp đi lặp lại cũng dễ kết nối với những tâm tình tương ứng, trừ phi người ta cố ý chỉ dừng lại ở hình thức, như một cử chỉ xã giao thôi. Cho nên đừng theo Tây mà rời bỏ truyền thống, nhưng theo thời mà bớt rườm rà đi. Như thay vì để tang mà mặc áo xô, thì chít khăn xô cũng đủ trong ngày tang, ngày giỗ, còn ngày thường thì cài một miếng băng trắng (thô) là đủ.[21]
Riêng về thánh lễ, nên soạn lại kinh Tiền tụng theo kiểu Văn chúc, và chỉnh lại đôi chút kinh nguyện Thánh thể, sao cho có hương vị Văn tế ít nhiều. Theo cách làm của nhiều cộng đồng Công giáo bên Ấn, những đoạn kinh thư Ấn đó phù hợp cũng được lấy làm bài đọc; nếu trong thánh lễ thì đây là bài đọc nó dẫn vào Cựu ước, Thánh thư và Phúc âm nhờ đó có một sự liên tục giữa Á Cựu ước và truyền thống thiêng liêng phương Đông với Thánh kinh của Kitô giáo. Thánh lễ nhập thể của chúng tôi cũng làm như thế, và kinh thư được sử dụng là Tứ thư của Khổng giáo, Upanisad của Ấn giáo v.v. Chúng tôi cũng dịch nhiều bài thơ tôn giáo của Tagore và Tukâram để làm Đối xướng sau bài đọc kinh thư phương Đông, và Đối xướng ấy do hai bè nam nữ đối đáp theo cách làm âm dương hòa hợp của lối hát trống quân và quan họ bên Việt Nam, một số lối hát khác của Vân Nam và Lào.[22]
Về thời gian ngày lễ, Kitô giáo thế giới đã quen sử dụng dương lịch rồi, nên cũng đành theo thôi[23]. Dương lịch cũng chia 12 tháng, như thể theo mặt trăng, mà chúng ta gọi theo chữ Hán là “nguyệt”, nhưng chẳng còn gì là “nguyệt” cả. thế mà mặt trời thì rõ quá, “sáng sủa và rõ ràng” như những ý tưởng của Descartes vậy, nên chẳng còn gì huyền linh. Cố nhiên tối tăm cũng chẳng có gì tốt, bởi tối tăm gợi cho chúng ta về sự ác và tà quái, về quỷ và ma, khiến màu đen được gọi là hắc, đáng sợ. Chỉ có trăng mới đủ sáng để xua đi bóng tối, nhưng lại chưa đủ sáng để đánh tan huyền ảo và mộng mơ, khiến hợp với tâm trạng của nhà thơ và huyền nghiệm sỹ[24]. Chính vì thế, thơ và nghệ thuật thích tả trăng, nhiều cuộc cúng tế được tổ chức vào các tuần trăng, và các lễ hội lớn, nhất là bên phương Đông, luôn diễn ra theo âm lịch. Vậy chúng ta nên trở về với âm lịch trong những ngày lễ của riêng Công giáo Việt Nam, nhất là trong cưới hỏi và tang giỗ. Về tang giỗ, Công giáo Việt Nam đã tự động có những hội nhập rất đáng khen. Có điều vì tự động, không nghiên cứu kỹ, nên chúng ta làm và hiểu sai be bét. Chỉ có tang cha mẹ mới ba năm, nhưng ba tính theo người Việt, nghĩa là sang đầu năm thứ ba, thường 27 tháng.[25]
Nói về tôn giáo, thì có lẽ phương Đông sùng đạo nhất, bởi lẽ người phương Đông nói chung hướng nội. Quả thế, phương Đông chủ trương cân bằng âm dương, nhưng lại nghiêng về âm nhu, do đó sống tình cảm và thấy bằng trực giác, và cũng do đó dễ chủ quan và hướng nội, hướng tĩnh. Trong khi ấy thì người phương Tây hướng động và thấy bằng lý trí nên khách quan hơn, khiến cho về khoa học và khám phá các đỉnh cao, các đại dương thì họ luôn dẫn đầu. Để khai thác điểm mạnh của mình, về mặt tôn giáo ta hãy phát triển cầu nguyện, chiêm niệm, nhất là vào thiền để tâm hồn siêu thoát và định an, nhưng về mặt tông đồ lại phải học hỏi nhiều ở sự hăng say của các nhà truyền giáo Âu Mỹ.
Vì sống tình cảm, người Á Đông rất coi trọng gia đình, thậm chí coi quan hệ gia đình như kiểu mẫu lý tưởng để kiến thiết mọi quan hệ khác ngoài xã hội. Chính vì thế mà khi xưng hô ngoài xã hội, người Việt chúng ta gọi nhau bằng ông, bà, chú bác, cô thím v.v. Thậm chí tại một số giáo phận miền Bắc xưa, người ta tổ chức cuộc sống nhà tu thành những Linh tông và Nhà Đức Chúa Trời, với các cha, các thầy, các cậu và bõ ngãi; trong khi mà ở bên Tây, chỉ có một mình cha sở cô quạnh trong nhà xứ, chứ cha phó cũng thuê nhà bên ngoài, không ở chung. Cuộc sống chung khiến giảm đi nhiều thoải mái đấy, nhưng bù lại có bầu khí gia đình, có mọi người chăm lo lẫn cho nhau, có tiếng cười con nít làm cho lòng già ấm lại, có môi trường đạo đức để ươm trồng ơn gọi và gìn giữ cá nhân trong những phút yếu lòng dễ sa ngã.
Ngày nay, cũng để phát triển ơn gọi và tránh cô đơn, chúng ta nên phần nào trở lại với cách sống đó, miễn là khuôn khổ phải thanh thoáng hơn, và các thiếu niên không tách hẳn như xưa khỏi gia đình, bởi lẽ một giáo dục toàn vẹn đòi hỏi như thế.
Những đoàn thể Công giáo đặc biệt, ngoài chia sẻ trong cầu nguyện, cũng nên có gì chia sẽ trong cuộc sống nữa. Giống như một số cộng đồng cơ sở hiện giờ bên châu Mỹ, châu Âu. Còn gia đình Công giáo thì hãy cố bảo vệ hai nét chính yếu của gia đình Việt Nam là tính truyền thống và tính mở rộng, những cái mà nhà dân tộc học lừng danh, linh mục L.Cadière, đã ca ngợi không tiếc lời. Quả thật, gia đình chính cống Việt Nam không gói gọn ở cha mẹ và một hai đứa con, bởi lẽ còn có ông bà và một hai cô dì góa hoặc độc thân ở chung với, khiến vợ chồng hễ cãi nhau là có người can ngay, không dễ gì ly dị được. Tình gia đình càng sâu và thiêng liêng hơn khi hết thảy tập hợp quanh bàn thờ tổ tiên, khiến ai nấy cảm thấy sự gần gũi và che chở của người thân đã ra đi, và thấy mình có bổn phận giữ gìn gia phong, nền nếp. Vâng, chỉ cần dung hòa tính bền chặt trong quan hệ ấy với sự tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau giữa các thế hệ. Đồng thời dung hoa giữa sống chung và những gì riêng tư của mỗi cá nhân.
c õ ª õ d
Chú thích
[20] Con người hôm nay ngại quỳ hai gối và phủ phục, bởi lo dơ và nhăn áo quần. Nên chỉ các đan viện, do khuynh hướng tĩnh lặng, chiêm niệm cao và thời gian không quan trọng mấy, mới có thể đi vào những nghi thức cầu kỳ, giàu tính truyền thống hơn.
[21] Từ lâu nay, các giáo sĩ và tu sĩ Việt Nam, thay vì chít khăn tang, thì lại quàng khăn tang quanh cổ, một cách tân quá vô lý và lạ lùng.
[22] Giáo phụ nhìn nhận rằng, cũng như Cựu ước xưa đối với Do Thái giáo, Thiên Chúa chuẩn bị cho ngoại dân bằng chính triết học của “người Hy Lạp và man di” (Strômatês). Nay thì dù Đức Giáo hoàng cũng chủ trương Thánh Linh có thể hoạt động trong các tôn giáo lớn. Thế thì sao lại không thể coi Thánh kinh của họ như một Á Cựu ước, nó chuẩn bị cho Tân ước? Có điều chỉ có thể chọn đọc (trước kinh thánh của ta) những đoạn nào phù hợp thôi. Và đây là điều mà Công giáo Ấn Độ đã làm từ xa xưa rồi.
[23] Thật ra, thì một số lễ lớn có tên Paskha và Pentêcostê cũng diễn ra theo âm lịch, bởi hướng về hai biến cố Phục sinh và Quang lâm vốn đã xảy ra vào hai ngày lễ Do Thái là Paskha và Penêcostê, cũng ấn định theo âm lịch luôn.
[24] Khiến đen mà vẫn còn sáng thì gọi là Huyền. Mà Huyền cũng là u linh nữa.
[25] Tang cha mẹ gồm giỗ đầu hay Tiểu tường trọn một năm, rồi Đại tường trọn hai năm, nhưng bó tang phục thì hai, ba tháng sau trong nghi lễ gọi là Trừ phục
https://catechesis.net/mot-vai-goi-y-ve-viec-song-dao-trong-van-hoa-viet-3/ (cập nhật ngày 11.5.2023)