Ngày tháng: 04/12/2024
Đang truy cập: 6

Năm Phương Pháp Nghiên Cứu Thần Học Hiện Hành - Phần 1/3 - Francis Schussler Fiorenza

NĂM PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU THẦN HỌC HIỆN HÀNH - Phần 1/3

 Francis Schussler Fiorenza

NO PHOTO​​​​​​​

Hiện nay, trong lãnh vực thần học công giáo , đang có nhiều phương pháp và cách thức nghiên cứu khác nhau, với những nét đặc trưng cá biệt, được đem ra xử dụng. Để có thể hiểu được thực trạng khác biệt ấy, xin được trình bày về một số ”thể loại điển hình” sau đây : phương pháp tiên nghiệm, phương pháp chú giải, phương pháp phân tích, phương pháp đối chiếu, và phương pháp giải phóng. Sở dĩ các phương pháp nầy được coi là những ”thể loại điển hình”, chính là vì chúng khác biệt nhau về phương diện lý thuyết. Tuy nhiên, trong thực tế, các phương pháp ấy không loại trừ lẫn nhau, và thường khi lại còn được phối hợp thực sự với nhau nữa. Dù có chủ trương theo một phương thức nghiên cứu cá biệt nào đó, thì một thần học gia cũng vẫn có thể vay mượn nhận thức, phạm trù và phương pháp làm việc của các phương thức nghiên cứu khác. Chẳng hạn một nhà thần học giải phóng có thể dùng một lối phân tích tiên nghiệm hoặc là một học thuyết chú giải mới được đề xướng gần đây, vào việc minh giải một luận chứng đặc biệt nào đó, cho dù thần học giải phóng xét theo tư thế là trào lưu thần học, có rất nhiều khác biệt với thần học tiên nghiệm, hay thần học chú giải .

THẦN HỌC TIÊN NGHIỆM

Khuynh hướng ”trở về với chủ thể” (tức là lối suy luận dốc toàn lực để chú tâm vào việc tìm hiểu về tính chất chủ thể của con người và về vai trò mà tính chất ấy đóng giữ trong việc nhận thức cũng như trong tín ngưỡng tôn giáo của con người ) là lối biểu thị trung thực nhất về nét đặc trưng của phần lớn thần học công giáo hiện đại, một nền thần học đã từng phải ở vào thế đối đầu với những thách đố lớn, mọc lên từ triết học tân thời do Descartes và Kant khởi xướng. Khuynh hướng trở về ấy đã đặc biệt thịnh hành trong các thế kỷ 18 và 19, khi mà nhiều trường phái thần học tìm cách để đối phó cho thích đáng với những thách đố do triết học tân thời đưa ra. Tuy nhiên, dưới thời Giáo Hoàng Pio IX và Leô XIII, các cố gắng như thế đã bị cự tuyệt. Đức Leô XIII đã chuẩn nhận học thuyết Tôma như là hệ thống triết học chính thức của Giáo Hội Công Giáo Rôma. Do đó, đầu thế kỷ thứ 20, trong Giáo Hội Công Giáo, học thuyết Tôma đã trở thành lề lối chỉ đạo chính yếu cho công tác nghiên cứu triết và thần học. Nhưng, trong các thập niên 40 và 50, một khởi điểm mới đã thành hình. Lần nầy thì thần học tìm cách để phối hợp triết học tân thời với triết học Tôma. Cần phải tìm hiểu cho tỉ mỉ chi tiết hơn về tiến trình ấy, tiến trình bắt tay với triết học tân thời, kể từ những bước dọ dẫm ban đầu, qua những thời bị cự tuyệt cho đến những nỗ lực kiên trì để không ngừng tiếp tục.

Khuynh hướng trở về với chủ thể trong thần học hiện đại.

Những cố gắng kết nạp và phối hợp triết học tân thời như thế, đã bắt đầu gặt hái được những thành quả đáng kể vào đầu thế kỷ 19. Geog Hermes, một giáo sư thần học tại đại học Munster và Bonn, đã gia công để làm sao thiết đặt cho thần học một khởi điểm khả dĩ kết nạp được ”nguyên tắc hoài nghi” trong triết thuyết của Descartes. Dù chỉ là một học giả và tác giả thần học tại gia sống ở Viên ( Áo quốc), thì Anton Gunther cũng là người đã gây được ảnh hưởng lớn nhất đối với giới thần học công giáo nói tiếng Đức hồi thế kỷ 19. Gunther đã cố dựa theo nền tảng của khoa nhân loại học và dùng các phạm trù mang đậm ảnh hưởng của Descates, để khai triển thần học. Còn các thần học gia thuộc trường phái Tubingen (như Von Drey, Mohler, Staudenmeier, Kuln và Schell) tại Đức, đặc biệt là với nhân vật tiếng tăm như Hegel, jacobi, Schleiermacher, và Schelling. Các thần học gia nầy đã ra sức dùng những suy tư và phạm trù rút tỉa - và đã được cải biến đi nhiều - từ tư tưởng của các triết gia vừa nói, mà khai triển thần học công giáo, nhằm bắc một nhịp cầu nối kết nội dung và lịch sử của đức tin lại với chủ thể con người.

Trào lưu Tân kinh viện đã phản ứng chống lại các nỗ lực đưa ra nhằm giảng hòa triết học tân thời với thần học công giáo. Các luồng ảnh hưởng từ phía Giáo Hội cũng như từ phía các thế lực chính trị, đã tác dụng mạnh trên các tổ chức và cơ sở giáo dục công giáo. Kết quả là nhiều thần học gia tầm cỡ đã bị mất chỗ dạy. Học thuyết Tôma thì được Giáo Hoàng tuyên nhận làm khoa ”triết học chính thức” của nền thần học công giáo; cho dù học thuyết ấy, học thuyết mà ngày nay người ta thường gọi là Tân học thuyết Tôma, cũng chỉ là một nhánh riêng biệt của học thuyết Tôma mà thôi. Và dù trào lưu Tân kinh viện có mạnh mẽ phản ứng chống lại triết học tân thời và thời đại Ánh sáng, thì mối liên hệ con đẻ mà trường phái ấy có đối với tân đại cũng vẫn bền chặt, không kém thua gì mối quan hệ đối địch vừa nói trên đây. Tân học thuyết Tôma phân biệt rõ ràng giữa tự nhiên ( Nature) và ơn thánh (grace), nới rộng phạm vi của phần dẫn nhập vào đức tin thành một khoa thần học cơ bản cũng như biện giáo, khác biệt với thần học hệ thống. Các bước phát triển ấy đã có được là do công ơn sâu rộng của chính tân đại mà Tân học thuyết Tôma chống đối. Tuy nhiên, tiến trình đối thoại với triết học tân thời đã không chấm dứt với việc áp đặt Tân học thuyết Tôma. Với thời gian, luận trào chống tân thời cũng tàn dần đi; còn các thần học gia Tân học thuyết Tôma thì rút dần lui khỏi cuộc luận chiến chống lại triết học tân thời. Thay vào đó, ngành nghiên cứu sử liệu đã triển phát mạnh mẽ. Trong bối cảnh ấy, một số những người thừa kế học thuyết Tôma phục hưng, đã thử tìm cách để bắc nhịp cầu nối kết thần học Tôma lại với triết học tân thời. Những thần học gia công giáo có ảnh hưởng lớn vào bậc nhất trong thời công đồng Vaticanô II cũng như trong thời hậu công đồng, đều đã được đào luyện theo truyền thống Tân kinh viện, và tất cả - trừ Hans Kung và Joseph Ratzinger - đã chọn những chủ đề về Tôma để viết luận án hoặc là những tác phẩm đầu tay đáng kể của mình. Họ ra sức giải thích lại Tôma Aquinô theo một đường hướng và phương thức độc lập khỏi những giả định và lối nhìn của học thuyết Tân kinh viện. Họ khai quật những chiều kích thần học trong tư tưởng của Tôma và đưa chúng lên hàng đầu, cũng như cố phục hồi những gì ảnh hưởng Augutinô còn để lại trong thần học Tôma. Họ minh chứng rằng lối phân biệt trừu tượng giữa tự nhiên và siêu nhiên mà học thuyết Tân kinh viện thường dùng tới, không phải là một phương thức của học thuyết Tôma chính thống. Là một trào lưu thần học, và bởi không để cho những hào nhoáng của tân thời mê hoặc mà vứt bỏ qúa khứ hẳn đi, cũng như không để cho những tiếc nuối nhớ về qúa khứ ám ảnh mà đâm ra chua chát ruồng rẫy hết những gì về tân đại, nên các nỗ lực trên đây đã gây được ảnh hưởng mạnh mẽ, hữu hiệu và sâu rộng. Nói cách khác, chính những nỗ lực ấy đã mở đường đưa thần học Tôma đến tiếp xúc và đối thoại với triết học tân thời .

Những thành quả mà trào lưu nầy đã mang lại được, thì thật là to lớn. Karl Rhaner đã đưa ra các phạm trù của cả Kant lẫn Heidegger vào dùng trong công trình tìm hiểu về khoa học luận theo tư tưởng Tôma Aquinô. Qua hai thiên khảo luận về ân sủng tác động và về mối tương quan giữa nội ngôn (inner word) và các ý tưởng, Bernard Lonergan đã liên hệ Tôma lại với chủ thuyết tân thời trong ngành khả tri luận.  Trong thiên khảo luận nghiên cứu cách thức Tôma hiểu về các bí tích, Edward Schillebeeckx đã thử đặt một giây liên hệ giữa các bí tích và hiện tượng gặp gỡ. Cả thiên khảo luận của Henri Bouillard viết về mối quan hệ giữa ân ủng và tự nhiên lẫn các công trình nghiên cứu của Henri de Lubac về tiến trình phát triển của khái niệm siêu nhiên, đều nêu bật cho thấy tầm trọng yếu mà các nhân tố thừa hưởng từ hệ thống tư tưởng của Augutinô, đóng giữ ở trong thần học Tôma, nhưng lại không được Tân học thuyết Tôma lưu ý tới. Và cả thế hệ các thần học gia tiếp sau đó (đặc biệt nhất là Johann Baptist Metz, Max Seckler và Otto Hermann Pesch) cũng đã tiếp tục đối thoại như thế với Toma Aquinô.

 Hiện tượng luận tiên nghiệm theo Karl Rahner

 Đà phát triển của phương pháp tiên nghiệm trong thần học công giáo có một tầm quan trọng đặc biệt.  Từ " tiên nghiệm " (transcendental) là một danh từ chuyên môn trong triết học, mang nhiều ý nghĩa gắn liền với nhiều giai đọan lịch sử.  Trong triết học kinh viện, tiên nghiệm chỉ về những gì có thể áp dụng được cho mọi hữu thể.  Chẳng hạn: "thiện" là tiên nghiệm, vì tính chất ấy có thể dùng để nói về bất cứ một vật hiện hữu nào (như Thiên Chúa, các thiên thần, loài người , các sự vật thể trong thiên nhiên), trong khi đó, thì "số lượng" chỉ được dùng cho các thực tại vật chất mà thôi. Trong triết học tân thời, Kant đã dùng từ tiên nghiệm để chỉ về những điều kiện tiên nhiên (a priori) cần để cho kinh nghiệm có thể có được.  Theo nghĩa ấy, một cuộc phân tích tiên nghiệm là không gì khác ngoài một cuộc khảo xét về những điều kiện tiên quyết và tính cách khả dĩ của việc nhận thức, bằng cách khảo xét về tri năng con người.

Trong học thuyết Tôma hiện đại, từ tiên nghiệm còn mang một ý nghĩa thứ ba, bao hàm cả hai ý nghĩa trên đây.  Bởi nó chỉ về những điều kiện nơi phía chủ thể, cần cho khả năng nhận thức, nên ý nghĩa này gồm hàm cách hiểu của Kant. Vì thế, từ tiên nghiệm lại được gán cho thêm từ thần học để chỉ về các điều kiện thiết yếu cần phải có trong việc nhận thức mạc khải. Thần học hệ thống là tiên nghiệm khi nó khảo xét về "các điều kiện tiên thiên nơi phía tín hữu (người có lòng tin), cần cho việc nhận thức các chân lý trọng yếu của đức tin."  Rồi, từ tiên nghiệm cũng vẫn còn giữ lại phần ý nghĩa kinh viện của nó để chỉ về chân trời vô biên của tri thức con người. Theo nghĩa này, thì từ tiên nghiệm lại chỉ về đà năng động vô hạn của trí tuệ con người hằng ra sức không phải là để nắm cho được những đối tượng nhất định nào đó của kinh nghiệm mà thôi, nhưng còn là để thấu triệt ý nghĩa của toàn bộ thực tại nữa.

Học thuyết Tôma tiên nghiệm bắt nguồn từ Joseph Maréchal, một giáo sư dạy triết tại kinh viện Dòng Tên ở bên Bỉ. Maréchal đã phối kết siêu hình học Tôma với triết học tân thời, đặc biệt với triết học của Kant và Fichte.  Qua công trình giảng huấn và bộ sách năm cuốn mang tựa đề Le point de départ de la métaphysique,Giáo sư đã ảnh hưởng rất rộng lớn đến các triết học và thần học gia công giáo tại Châu Âu.  Giữa các thần học gia chịu ảnh hưởng của Maréchal để đại diện nói lên đường hướng nghiên cứu thần học theo phương pháp tiên nghiệm, Karl Rahner hẳn là người có ảnh hưởng và tiếng tăm nhiều nhất.  Chịu ảnh hưởng không những của Maréchal, mà còn của cả Martin Heiegger nữa (đặc biệt là trong tác phẩm thời đầu), Karl Rahner đã viết về toàn bộ các vấn đề trong thần học Kitô.  Các tác phẩm xuất bản do Rahner chủ biên cũng có tầm bao quát lớn và ảnh hưởng rộng không kém.  Trong nhiều năm, ông gia công lo cho việc xuất bản bộ Denzinger giới thiệu các văn kiện của Giáo Hội, cũng như nhiều bộ bách khoa tự điển và tự điển thần học, như Lexikon fluer Theology un Kirche, Sacramentum Muni, Dictionary of Theology , cùng nhiều loạt bài viết về các vấn đề còn bàn cãi, Questiones Disputatae . Ngoài ra, Rahner cũng đã đóng góp nhiều trong việc thành hình tờ Concilium , là một tập san quốc tế về thần học.

 Khởi Điểm của Rahner

Chủ chốt trong phương thức nghiên cứu của Rahner là kỹ thuật phân tích kinh nghiệm mà con người có đối với trí thức và tự do, coi đó như là kinh nghiệm về một thứ "tiên nghiệm tính tuyệt đối và vô hạn."  Kinh nghiệm ấy vừa cấu thành và vừa biểu đạt tính chất lịch sử của con người, là những chủ thể tự căn cội rộng mở ra với những gì là tiên nghiệm và hướng quy về với mầu nhiệm tuyệt đối gọi là Thiên Chúa.  Rahner quan niệm rằng thiên hướng căn cội ấy, thiên hướng quy về với thực thể tuyệt đối như thế, thì không chỉ đơn thuần đóng giữ vai trò cấu thành bản tính con người mà thôi, nhưng còn là thành của phát sinh từ sự việc Thiên Chúa tự thông đạt chính mình ra một cách sung mãn ở trong lịch sử và hiện diện một cách hùng hồn ở giữa loài người; và chính sự việc tự thông đạt ấy cũng là một tín trình lịch sử: Lịch sử Thiên Chúa hiện diện với chức năng cứu độ, ở trong thế giới.

Phương Pháp của Rahner

Rahner giới thiệu phương pháp của mình qua các đường nét sau đây:

Thứ nhất, qua các hành động tri thức và sử dụng tự do, con người vượt lên trên (tiên nghiệm hóa) chính mình. Hành động nhận thức về một đối tượng cá biệt nào đó, hoặc ước muốn một họat động nhất định nào đó, là hành động có một tầm kích rộng mở bất tận. Hiểu biết và ước muốn không chỉ dừng lại ở nơi một đối tượng hay một hành động duy nhất, nhưng trái lại, có khả năng trải dài bất tận.  Do đó, bước đầu tiên chính là kinh nghiệm vừa nói về tính chất vô hạn của sự việc con người hiểu biết và ước muốn, tức là kinh nghiệm về trạng thái rộng mở của chủ thể tính nơi con người hướng về với thực tại vô biên, vượt hẳn lên trên những gì là hữu hạn.  Tính chất vô biên ấy của chân trời hiểu biết và ước muốn thiên phú nơi con người, sẽ nổi bật lên rõ ràng trong nỗ lực đặt vấn đề và tìm hiểu về ý nghĩa của chân trời ấy trong đời con người.  Hằng đi tìm cho ra ý nghĩa ở bên kia ranh giới các đối tượng của kinh nghiệm, nên con người phải ở vào thế đối diện với mầu nhiệm không thể hiểu nổi.

 Thứ hai, trong cuộc tìm kiếm ấy, con người cảm nhận ra rằng mình hữu hạn đến tận gốc rễ, nhưng hằng khắc khoải với muôn vàn câu hỏi đặt ra bất tận. Con người cảm nhận thấy rằng thực tại là một mầu nhiệm không thể hiểu nổi, nhưng đồng thời, con người cũng hy vọng là cuộc đời của mình sẽ đạt đến một mức thành tựu cao đẹp nhất có thể.  Con người hy vọng  rằng cuối cùng rồi thực tại có ý nghĩa.  Dù hữu hạn và chịu giới mức, con người cũng vẫn nuôi hy vọng là có ngày sẽ nắm trọn được ý nghĩa toàn vẹn và tuyệt đối.  Con người hy vọng và tin tưởng rằng mầu nhiệm tuyệt đối của hữu thể chính là Ngài (thou), là Đấng đáng cho mọi người tuyệt đối tin cậy.

 Thứ ba, Rahner chứng giải cho thấy rằng cuộc hiện hữu lịch sử và cuộc hiện hữu nội tâm của con người chỉ là một.  Tính chất duy nhất ấy hàm ngụ ý nghĩa này là sự việc Thiên Chúa tự thông đạt chính mình ra (mạc khải) cũng như lòng kỳ vọng mà con người hằng ấp ủ đối với sự việc ấy, đều đi xuyên qua trung gian của lịch sử : cả hai cũng đều cùng nhau "xuất hiện" ở trong lịch sử của loài người.  Vì lẽ đó, những sự có tính cách lịch sử và bất tất (contigent) đều cùng một trật tuyên báo và thức tỉnh lòng kỳ vọng vào sự  hiện hữu và hiện diện của thực thể vô biên và tuyệt đối.  Tắt một lời, niềm hy vọng mà con người hằng ấp ủ đối với ý nghĩa của cuộc hiện hữu, là một niềm hy vọng mang tính chất lịch sử, vì nó hiện lên ở giữa lòng lịch sử như là kết quả của sự việc Thiên Chúa hiện diện ở trong lịch sử loài người.  Theo cách Rahner giải thích, thì vai trò lịch sử làm trung gian cho thực thể vô biên ở trong lãnh vực của thực thể hữu hạn, có nghĩa là Thiên Chúa hiện diện trước tiên trong những sự có tính lịch sử và bất tất như là một lời hứa và một niềm hy vọng, mặc dù cảm thấy thân phận hạn hữu và chết chóc của đời con người.

 Thứ tư, sống trong điều kiện của lịch sử và thời gian, con người nghiệm xét lịch sử hầu tìm cho ra lời Thiên Chúa hứa tự ban mình, là một lời chung quyết và không thể đảo ngược.  Con người truy khảo lịch sử để phát hiện cho được câu trả lời về ý nghĩa.  Con người cố tìm cho biết về những gì có đủ điều kiện để đưa ý nghĩa của lịch sử đạt được đến mức thành tựu sung mãn và tuyệt đối.  Con người đi tìm một biến cố lịch sử khả dĩ mang lại cho thế giới một lời đoan hứa không thể hủy.

 Thứ năm, điểm cuối cùng trong phương pháp của Rahner là khái niệm "Đấng Cứu Độ tuyệt đối": để giải thích về khái niệm nầy, tác giả đã căn cứ theo luận chứng nói rằng chỉ có chủ thể tự do mới có thể biểu đạt được sự việc Thiên Chúa hiện diện ra trong thế giới qua trung gian của lịch sử một cách không thể đảo ngược.  Chỉ có chủ thể tự đo mới có thể làm "mô mẫu" nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa ở trong thế giới.  Vì lẽ, để được ban tặng và nhận lãnh một cách tự do, Thiên Chúa cần phải được tiến hành và đón nhận nơi một chủ thể nhân tính tự do.  Cá nhân ấy chấp nhận thân phận hữu hạn của con người mình, và được Thiên Chúa đón nhận trong thân phận cùng thái độ như thế, rồi nhờ đó mà có được ý nghĩa mô mẫu cho thế giới.

Đối chiếu giữa Aquinô và Rahner

 Nếu đem bộ Tổng Luận Thần Học (summa Theologiae) và cuốn  Nền Móng của Đức Tin Kitô (Foundations of Christian Paith) đối chiếu với nhau, thì sẽ thấy rõ những đổi thay quan trọng, cả về gỉa thuyết lẫn phương pháp, đã xảy ra trong thần học.  Tôma đã biên soạn bộ Tổng Luận như là một pho cẩm nang thần học cho các sinh viên dùng.  Còn Rahner thì biên soạn tác phẩm của mình như là một "tập sách giáo khoa căn bản" (nguyên bản bằng tiếng Đức dùng từ Grunkurs làm tựa đề) với mục đích mở lối vào cho các sinh viên mới bước tới ngưỡng cửa thần học và các chân lý trong đức tin kitô.  Cho dù việc đối chiếu như thế không phải là một việc làm thích đáng cho lắm --vì trong hai tác phẩm vừa nói, tác phẩm đầu là một tổng luận thần học, còn tác phẩm sau chỉ là một văn bản viết về thần học căn bản-- thì việc đối chiếu ấy cũng vẫn có được điểm lợi này là nó giúp cho nhận rõ được rằng các giả thuyết thần học màhai tác phẩm đã dùng tới, thì rất khác biệt nhau.

Rahner bắt đầu công trình nghiên cứu với việc gia công phân tích về con người, về các hành động nhận thức và ước muốn nơi con người, cũng như về khát vọng bẩm sinh sâu thẳm dồn thúc con người đi tìm cho ra ý nghĩa của cuộc hiện hữu.  Khát vọng tìm hiểu ấy và kinh nghiệm về mầu nhiệm tuyệt đối cộng với kinh nghiệm về tội lỗi và ân sủng, là nội dung các chương đầu của cuốn sách.  Tác giả đã đi từ một khởi điểm có tính cách nhân loại học: nhân loại học không những vì đã bắt đầu công trình nghiên cứu với việc phân tích nhân loại mà thôi, nhưng còn là vì đã nối kết các chân lý căn bản của đức tin kitô với vấn đề con người.  Mạc khải của Thiên Chúa, lịch sử cứu độ, Kitô học, Giáo Hội và các bí tích, cũng như cánh chung học, đều được giải thích theo tầm trọng yếu mà chúng đóng giữ đối với con người.

Còn khởi điểm và cấu trúc của Tôma thì lại quy thần (theocentric).  Tiếp sau câu hỏi đầu tiên về bản chất của sacra doctrina (giáo thuyết thánh), Tôma đã bắt đầu đề cập đến sự hiện hữu và bản tính của Thiên Chúa --Thiên Chúa duy nhất và ba ngôi -- trong phần 1 của bộ Summa Theologiae (Tổng Luận Thần Học); rồi tiếp sau đó, là bàn về công trình Thiên Chúa tạo dựng.  Phần hai viết về bản tính con người và về các sức năng của bản tính ấy.  Phần ba trình bày về Kitô học, các bí tích và cánh chung học.  Lề lối cấu trúc như thế đã được coi như là theo sát mô mẫu của Aristốt cũng như của Tân phái Platô.  Giải thích về Tôma, phái Tân kinh viện đã nhấn mạnh nói rằng cách phân chia thành ba phần như thế thì hoàn toàn ăn khớp với các phạm trù về nguyên tắc nhân quả theo Aristốt:  phần một nghiệm xét Thiên Chúa như là nguyên nhân tác thành; phần hai nghiệm xét Thiên Chúa như là nguyên nhân cứu cánh, như là cùng đích; và phần ba nghiệm xét Thiên Chúa như là nguyên nhân mô mẫu của mọi sự vật.  Các sử gia thời Trung cổ lại nêu bật về lối suy luận phái Tân Platô, là lề lối nhấn mạnh đến sự việc mọi sự vật đều bắt nguồn từ Thiên Chúa, và rốt cuộc đều sẽ trở về với Thiên Chúa (exitus - reditus). Phần một chính là exitus : Thiên Chúa và công trình tạo dựng xuất phát từ bàn tay Thiên Chúa; phần hai chính là reditus : cuộc trở về với Thiên Chúa; còn phần ba thì bàn đến mô mẫu và những phương thế của cuộc trở về ấy.  Cách giải thích vừa thấy trên đây về cấu trúc của bộ Summa , đều mặc nhiên nhìn nhận rằng bộ sách ấy đã được tổ chức theo mô mẫu cấu trúc quy thần.

Giữa cuốn Grundkurs và bộ Summa , nét khác biệt hiện lên rõ hơn cả là lúc nhận định về thế đứng và vai trò của nhân loại học đối với thần học. Trong khi Tôma đặt nhân loại học ở trong phần hai bộ Summa , thì Rahner lại để khoa này ngay nơi đoạn đầu cuốn Grunkurs.  Đối với Rahner, nhân loại học là khởi điểm và đồng thời cũng là điểm quy chiếu thường trực của công tác suy tư thần học.  Khởi điểm là chính nỗi lòng khát khao của con người đi tìm cho ra ý nghĩa tối hậu, vì lòng khao khát ấy tất sẽ dẫn tới việc đặt vấn đề Thiên Chúa và nghiệm xét lịch sử, đặc biệt là nghiệm xét cuộc Thiên Chúa mạc khải qua Đức Kitô, hầu tìm cho ra câu giải đáp thỏa đáng.  Toàn bộ nội dung các chân lý đức tin đều có liên hệ với các cơ cấu tổ chức cuộc sống con người, cũng như với nỗi niềm khát khao tìm cho ra ý nghĩa tối hậu của hiện hữu, mà con người hằng ấp ủ trong lòng.  Thế nên, đường lối thần học mà Rahner theo đuổi là tìm cách để bắc nhịp cầu liên hệ hòa hợp giữa hai đường hướng quy nhân và quy thần.  Hai đường hướng ấy chẳng những không đối nghịch nhau, mà còn tương hệ tương quan liên đới với nhau một cách cân xứng nữa.

Bên kia giới mức Thần học Tiên nghiệm

 Ngoài tư thế là một trào lưu có tầm cỡ lớn trong thần học cận đại, khuynh hướng trở về với chủ thể còn có công để ý nêu bật sứ mạng của thần học trong công tác liên kết nội dung và các chủ đề của thần học lại với chủ thể con người.  Tuy nhiên, khuynh hướng trở về với chủ thể cũng không tránh cho khỏi được những phê bình chỉ trích.  Đặc biệt, Hans Urs von Balthasar biện luận nói rằng chiều hướng quy nhân trong thần học cận đại, nhất là khi được hiểu theo cách Karl Rahner trình bày, sẽ thu hẹp hẳn chân lý tôn giáo vào trong khuôn khổ của nhãn quan thuần túy nhân loại học, và như thế sẽ tỏ ra không mấy công bình cho lắm đối với các tầm nhìn hay chiều kích khác.  Von Balthasar đã chủ trương khai triển tác phẩm chính của mình về thần học hệ thống theo hình thức ba phần: Phần một phác họa các đường nét chính của thẩm mỹ học trong thần học, để nhìn đến mạc khải từ quan điểm "Mỹ".  Phần hai trình bày mạc khải theo hình thức của một tấn thảm kịch với những tác động và ảnh hưởng hỗ tương. Phần ba miêu tả mạc khải như là ý tưởng và lời nói.  Các từ mật mã của ba phần trên đây là: thần -hiển linh (theo-phany) = thẩm mỹ học; thần - hành động (theo-praxy) = kịch trình thuyết; và thần luận học (theo-logy) = luận lý học.  Ảnh hưởng mà von Balthasar có đối với Walter Kasper và Joseph Ratzinger, hiện rõ ở trong những nhận định các tác giả này đưa ra nhằm phê bình đường hướng nghiên cứu theo phương thức tiên nghiệm của Rahner.  Ngay ở trong phương phức nghiên cứu thần học mà ông theo đuổi, chính Kasper cũng đã tìm cách để dùng phương cách hòa nhập lịch sử vào trong hệ thống suy tư thần học,  hầu bổ túc cho phương pháp tiên nghiệm; trong lúc đó, Ratzinger thì lại tỏ ra nặng nợ đối với truyền thống thời thế kỷ 19 của trường phái Tuebingen.

Cộng với những nhận định phê bình như thấy trên đây, đối với phương pháp tiên nghiệm, còn gặp thấy trong lãnh vực thần học hiện đại, những phương thức nghiên cứu đang cố tìm cách để vượt sang bên kia giới mức của phương pháp tiên nghiệm, bằng cách thu gồm trọn vào trong sứ mạng của việc nghiên cứu thần học, cả những chiều kích khác, những chiều kích có khả năng giúp xác định đúng vị trí của vai trò chủ thể con người.

Triết học về ngữ học và thuyết chú giải hiện đại đều nhấn mạnh nói rằng chủ thể con người cũng chỉ  hiện hữu được ở trong thế giới của ngôn ngữ và của truyền thống văn hóa mà thôi.  Các thể loại thần học giải phóng và thần học chính trị thì đề cao vũ đài xã hội chính trị là môi trường lớn rộng bao quát và thuận lợi hơn cho việc nhận rõ phẩm vị của con người.  Các trường phái này nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các chiều kích xã hội và chính trị trong công tác xây dựng ý thức sắc bén và thái độ tôn trọng đúng mức đối với phẩm vị con người.  Các điểm dị đồng với phương thức tiên nghiệm sẽ hiện lên rõ hơn qua phần trình bày và phân tích tiếp sau đây về các phương thức vừa kể ra một cách khái quát ở trên.

---Còn tiếp---

zalo
zalo