Ngày tháng: 04/05/2024
Đang truy cập: 4

NGHỆ THUẬT CỬ HÀNH PHỤNG VỤ - ARS CELEBRANDI (2)

NGHỆ THUẬT CỬ HÀNH PHỤNG VỤ
ARS CELEBRANDI

II. PHẬN VỤ CỦA CÁC THỪA TÁC VIÊN

1. Các thừa tác viên có chức thánh

Nhờ bí tích Truyền Chức Thánh, các thừa tác viên của Đức Kitô được thiết lập và trở nên người ban phát các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Qua việc đặt tay và lời nguyện truyền chức, Giám mục, Linh mục và Phó tế, nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, tham dự vào cử hành phụng vụ trong cách thế riêng của từng thánh chức. Trong lời nguyện truyền chức giám mục, Hội Thánh cầu xin cho tiến chức biết “thi hành chức vụ thượng tế cách hoàn hảo, biết phụng sự Cha suốt cả đêm ngày, không ngừng tỏ bày dung mạo nhân lành của Cha, và tiến dâng lễ vật của Hội Thánh.” Còn trong nghi thức diễn nghĩa, các tân linh mục được lưu ý “hãy ý thức việc con làm, noi theo điều con cử hành và rập mẫu đời sống con theo mầu nhiệm Thánh giá Chúa”; và các tân phó tế được nhắc nhở rằng “hãy chú tâm tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con dạy”[25].

Các Giám mục và linh mục với chức tư tế thừa tác không những có nhiệm vụ đại diện cho Đức Kitô, Đấng là Đầu Hội Thánh, quy tụ và công bố sứ điệp cứu độ cho cộng đoàn tín hữu, mà còn hành động nhân danh toàn thể Hội Thánh, khi dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện của Hội Thánh, và nhất là khi dâng Hy lễ Thánh Thể lên Thiên Chúa Cha[26]. Các ngài được mời gọi phải thi hành thánh chức một cách cẩn trọng: “khi cử hành Thánh Thể, ngài phải phục vụ Thiên Chúa và cộng đoàn cách trang nghiêm và khiêm tốn; và qua thái độ cử chỉ cũng như cung cách đọc lời Chúa, phải gợi lên cho các tín hữu thấy sự hiện diện sống động của Chúa Kitô”[27].

Các phó tế không lãnh nhận chức tư tế thừa tác, nhưng việc phong chức trao cho họ những nhiệm vụ quan trọng trong thừa tác vụ rao giảng Lời Chúa, phụ giúp các giám mục và linh mục trong việc cử hành mầu nhiệm thánh, nhất là thánh lễ, trao Mình Thánh Chúa, chứng hôn, rửa tội, công bố và rao giảng Tin Mừng, chủ tọa lễ nghi an táng và đặc biệt là dấn thân vào việc bác ái[28].

Dù thi hành thánh chức ở cấp bậc nào, các thừa tác viên cần lưu tâm nhận định của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI: “Nghệ thuật cử hành là kết quả của sự trung thành tuân giữ các quy luật phụng vụ trong mọi khía cạnh phong phú của nó”[29]. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã triển khai ý tưởng này chi tiết hơn:

Không được giản lược ars celebrandi vào thái độ tuân giữ cách máy móc các luật chữ đỏ, càng không được coi đó là sáng tạo - có khi là bừa bãi -, không có quy tắc. Bản thân nghi thức là một quy định, và quy định không phải là mục đích tự thân, nhưng nó phục vụ cho một thực thể cao hơn mà nó muốn bảo vệ[30].

Giải pháp cho những vấn đề tồn tại trong việc cử hành phụng vụ hiện nay cần khởi đi từ các linh mục. Để tránh những lạm dụng và “đổi mới” tùy tiện trong cử hành, linh mục phải tuân giữ kỷ luật, từ bỏ những tình cảm ủy mị, phải nghiêm túc thực thi tác vụ trong sự hiểu biết và tuân phục Hội Thánh. Một nguyên tắc quan trọng trong khi chủ tế Thánh lễ mà linh mục cần ghi nhớ là không được cướp mất sự chú ý phải dành cho tính cách trung tâm của bàn thờ, một “dấu chỉ của Đức Kitô, Đấng mà từ cạnh sườn bị đâm thâu, nước và máu đã chảy ra để nên nguồn mạch phát sinh các Bí tích của Hội Thánh” và là “tâm điểm của việc ca ngợi và tạ ơn Chúa”[31]. Sau bàn thờ, linh mục là dấu chỉ sự hiện diện sống động của Chúa Kitô trong cộng đoàn phụng vụ. Thế nên, vị trí của chủ tế, đặc biệt trong phần hiến tế - Kinh nguyện Thánh Thể, không thể bị lấn chiếm. Trong thánh lễ đồng tế ở một vài nơi, do không lưu ý nguyên tắc này hoặc vì thiếu micrô, vị trí của linh mục chủ tế (ngay cả giám mục) thường bị lấn át hay che khuất bởi các vị đồng tế khi đọc Kinh nguyện Thánh Thể. Hình ảnh này vừa mâu thuẫn với thực tại cử hành vừa làm mất đi nét đẹp của phụng vụ.

Một số lạm dụng trong cử hành phụng vụ hiện nay xuất phát từ nhận thức lệch lạc về tính sáng tạo và thích nghi[32]. Tái khám phá vẻ đẹp của phụng vụ cùng ý nghĩa của các dấu chỉ điệu bộ trong cử hành cũng giúp cho thừa tác viên tránh được sự nhầm lẫn giữa nét đơn giản với sự tầm thường bất cẩn, giữa điều thiết yếu với sự hời hợt thiếu hiểu biết, hoặc giữa tính cụ thể của nghi lễ với quan điểm duy chức năng quá mức trong thực hành[33]. Các cử chỉ và điệu bộ của thừa tác viên “phải thế nào để toàn thể việc cử hành có được vẻ đẹp đơn sơ trang trọng, giúp thấy rõ ý nghĩa thật và đầy đủ các phần khác nhau cũng như làm cho sự tham dự của mọi người được dễ dàng hơn”[34].

Thiết nghĩ các linh mục cần chú tâm hơn đối với một số tư thế cử chỉ quen thuộc trong khi chủ sự nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa đích thực và đầy đủ của các nghi thức và góp phần tạo nên vẻ đẹp và sự đơn giản của việc cử hành.

Đối với tư thế của đôi tay, ngoài cử chỉ chắp tay, một tư thế khác được linh mục chủ tế sử dụng thường xuyên là orans, tư thế với hai tay dang rộng vừa phải và hơi nâng cao. Các tín hữu cũng nhìn thấy qua tư thế này hình ảnh Chúa Kitô tự hiến mình trên thánh giá. Vị chủ sự thực hiện cử chỉ này khi cầu nguyện nhân danh mình và cũng nhân danh Giáo Hội. Như thế, cử chỉ orans làm cho linh mục chủ tế nên giống Chúa Kitô qua việc dâng chính Hy lễ của Ngài lên Chúa Cha. Trong khi đó, cử chỉ dang tay khi chào chúc hoặc mời gọi hoàn toàn khác với cử chỉ orans. Linh mục chủ tế dang tay hơi thấp rồi chắp lại trong khi nói lời chào chúc hay mời gọi cộng đoàn (ví dụ, Chúa ở cùng anh chị em). Một điều cần lưu ý là trước khi công bố Tin Mừng, phó tế hoặc linh mục khi không có phó tế, thực hiện lời chào với đôi tay chắp lại[35]. Bởi lẽ công bố Tin mừng là tác vụ của phó tế và lời chào của phó tế lúc này không có tư cách của linh mục chủ tọa. Thế nên, khi không có phó tế, một linh mục công bố Tin mừng cũng chỉ chắp tay chào mà không dang tay trong tư cách của chủ tế. Khi các phó tế chủ sự một vài nghi thức được luật cho phép cũng cần tuân giữ những thực hành nêu trên.

Ở phần đối đáp mở đầu Kinh Nguyện Thánh Thể, do có sự dịch chuyển giữa hai tư thế dang tay nên cách thức cử hành cũng có chút thay đổi. Linh mục dang tay đọc “Chúa ở cùng anh chị em”, nhưng không chắp tay lại như thường lệ. Sau lời đáp của cộng đoàn, linh mục đọc tiếp “Hãy nâng tâm hồn lên” và đồng thời nâng hai tay lên. Sau cùng khi mọi người đáp xong, linh mục giữ tay ở vị trí orans và đọc: “Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta.” Tư thế tay orans này được duy trì cho đến hết Kinh tiền tụng đọc liền sau đó[36].

Một cử chỉ quen thuộc khác thường bị nhầm lẫn hay thực hiện không chính xác liên quan đến đầu và toàn thân: cúi đầu và cúi mình.

Cúi đầu nói lên sự tôn kính mỗi khi đọc kinh Ba Ngôi Thiên Chúa một trật, khi đọc tên Chúa Giêsu, tên Đức Maria đồng trinh hay tên vị thánh được mừng kính[37]. Cách riêng, tên Chúa Giêsu Kitô không chỉ được nhắc đến hai lần trong kinh Vinh Danh mà còn ở nhiều chỗ khác trong các kinh nguyện của Thánh lễ, ngay cả ở phần đầu của kinh Tin Kính, nhưng các linh mục thường không chú tâm cúi đầu ở những thời điểm này.

Cúi mình hay cúi sâu với cả phần đầu và lưng chỉ sự kính cẩn trước Thiên Chúa hay một mầu nhiệm. Hội đồng Giám mục Việt Nam với sự đồng ý của Tòa Thánh đã cho phép cúi mình vào những lúc mà phụng vụ quy định phải bái gối để tôn kính phép Thánh Thể và Thánh giá[38]. Trong thánh lễ, ngoài những chỗ cúi mình thay cho bái gối hay chào kính bàn thờ, linh mục phải cúi mình khi đọc các kinh: “Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin thanh tẩy tâm hồn...” trước khi công bố Tin mừng; “Lạy Chúa là Thiên Chúa, xin thương nhận chúng con...” sau khi đặt bánh rượu ở phần chuẩn bị lễ vật của Phụng vụ Thánh Thể; trong kinh Tin Kính, khi đọc câu: “Bởi phép Chúa Thánh Thần…”; trong kinh nguyện Thánh Thể I, khi đọc câu: “Lạy Chúa toàn năng, chúng con nài xin Chúa sai Sứ thần…” Ngoài ra, linh mục cũng hơi cúi mình khi đọc lời truyền phép. Còn phó tế thì phải cúi mình xin chủ tế chúc lành trước khi công bố Tin Mừng[39]. Cần phân biệt tư thế cúi mình chào kính bàn thờ hay cúi mình bái lạy thay cho bái gối với tư thế cúi mình kèm theo kinh nguyện. Tư thế sau thường kéo dài cùng với việc đọc kinh, nếu không sẽ bị hiểu nhầm thành cử chỉ bái lạy hay chào kính. Điều này thường xảy ra khi linh mục đọc lời nguyện dọn mình trước khi công bố Tin mừng và lời nguyện dọn mình trước khi cử hành Kinh nguyện Thánh Thể. Cúi mình lúc này thể hiện sự khiêm tốn chân thành xin cho được chu toàn thừa tác vụ với tâm hồn chăm chú và đạo đức hơn khi cử hành hai phần cao điểm của Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể[40].

Những cử chỉ điệu bộ rất quen thuộc khác như làm dấu thánh giá, đấm ngực, đặt tay, ban phép lanh... cũng cần thực hiện cách tự nhiên, trang nghiêm, không cường điệu và nhịp nhàng theo lời đọc. Khi chú tâm chu toàn phận vụ của mình qua việc thực hiện các cử chỉ điệu bộ cách cẩn trọng, các thừa tác viên góp phần vào ars celebrandi của toàn bộ cử hành, giúp các tín hữu cảm nhận sự trang trọng linh thánh của nghi thức và tham dự tích cực vào mầu nhiệm được cử hành.

2. Thừa tác viên không có chức thánh

Những người giúp lễ, đọc sách, dẫn lễ và một số vai trò khác đều là những người đang thực hiện một thừa tác vụ Phụng vụ đích thực. Họ phải có đời sống gương mẫu và thi hành phận vụ với lòng đạo đức chân thành, nghiêm túc, đây là thái độ xứng hợp đòi hỏi đối với một tác vụ cao trọng và cũng là điều dân Chúa có quyền mong chờ[41]. Vì vậy, mỗi người tùy theo khả năng cần phải thấm nhuần tinh thần phụng vụ, và trau dồi học hỏi để chu toàn các phần việc của mình cho đúng nghi thức và theo đúng quy định.

Theo giáo luật, thừa tác vụ giúp lễ và đọc sách cố định chỉ có thể ủy nhiệm cho người nam[42]. Tuy nhiên, trong những nơi không có các thừa tác viên đặc biệt này, những giáo dân có khả năng và được huấn luyện có thể thay thế để phục vụ bàn thờ, trao Mình Thánh Chúa, hay đọc Sách Thánh[43]. Những thừa tác viên này phải mặc y phục xứng đáng và có tác phong nghiêm trang khi thi hành phận vụ.

Các thừa tác viên giúp lễ nên hạn chế đi lại trên cung thánh khi không thực sự cần thiết, và phải cúi mình mỗi lần đi ngang bàn thờ. Khi cần đi lại phải nghiêm trang với hai tay chắp trước ngực. Phía sau bàn thờ là vị trí của chủ tế khi cử hành Phụng vụ Thánh Thể nên cũng tránh lấn chiếm khu vực này với thời gian kéo dài.

Thừa tác viên trao Mình Thánh Chúa ngoại lệ chỉ tiến đến gần bàn thờ khi cộng đoàn đọc kinh “Lạy Chiên Thiên Chúa”. Khi chủ tế rước lễ xong, ngài cho các thừa tác viên này rước lễ, rồi cầm bình thánh trao cho họ, để họ cùng ngài cho cộng đoàn rước lễ. Khi cho rước lễ, thừa tác viên nâng Mình Thánh Chúa lên trước mặt và đọc “Mình Thánh Chúa Kitô”. Người rước lễ thưa: “Amen” và đón nhận Mình Thánh Chúa cách kính cẩn.

Thừa tác viên đọc sách cần có khả năng và giọng đọc rõ ràng, cung giọng phù hợp. Họ phải ý thức tác vụ công bố lời Chúa cho cộng đoàn nên cần chuẩn bị kỹ lưỡng, làm quen trước với bản văn sẽ đọc, tránh sự nhầm lẫn đáng tiếc như đọc sang ngày khác, hay đọc bài Tin mừng, gây chia trí cho mọi người, thậm chí làm hỏng bầu khí phụng vụ. Về vị trí đọc sách thánh, luật hiện nay đòi buộc các bài đọc Thánh Kinh đều phải được công bố từ giảng đài là nơi thích hợp với phẩm giá Lời Chúa[44].

Những người dẫn lễ, người phụ trách phòng thánh, người trang trí cung thánh, người xin tiền thau, người đón tiếp và hướng dẫn... có nhiệm vụ chuẩn bị và sắp đặt những yếu tố cần thiết, cũng như tham gia một số phận vụ cụ thể góp phần cho buổi cử hành diễn tiến trong trang nghiêm sốt sắng[45].

--- Còn tiếp ---

---------------------------------------------------

 

[25] x. Lễ Nghi Giám Mục - Nghi Thức Truyền Chức

[26] x. GLCG, số 1552.

[27] QCSL, số 93.

[28] x. Sđd, số 1570.

[29] x. Tông huấn Sacramentum Caritatis, số 38.

[30] Tông thư Desiderio Desideravi, số 48.

[31] Sách Lễ Nghi Giám Mục, Lời nguyện cung hiến bàn thờ.

[32] x. Gioan Phaolô II, Thông điệp Giáo Hội từ Thánh Thể - Ecclesia de Eucharistia (17.4.2003), số 52.

[33] x. Tông thư Desiderio Desideravi, số 22.

[34] QCSL, số 42.

[35] x. QCSL, số 134 và 175.

[36] x. Nghi thức Thánh lễ, số 31.

[37] x. QCSL, số 275.

[38] Ủy Ban Phụng Tự - HĐGMVN, Thông cáo ngày 1-1-1992.

[39] x. QCSL, số 275.

[40] x. Sđd, số 33.

[41] x. Sacrosanctum Concilium, số 29.

[42] x. GL 230, 1035.

[43] x. QCSL, số 100, 101.

[44] x. Sđd, 128, 130, 134, 309.

[45] x. Sđd, 105.

zalo
zalo