NGHỆ THUẬT CỬ HÀNH PHỤNG VỤ
ARS CELEBRANDI
Gm. Phêrô Kiều Công Tùng
WHĐ (12.08.2023) – Phụng vụ được ví như một công trình nghệ thuật, Chúa Kitô là “tác giả-nghệ sĩ” chính còn toàn thể cộng đoàn có phận vụ tham gia ars celebrandi, góp phần vào sự hoàn tất công trình, theo nghĩa đem lại hoa trái dồi dào nhất cho người tín hữu. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI nói ars celebrandi - nghệ thuật cử hành là “cách thức chính yếu thúc đẩy sự tham dự của Dân Chúa vào Nghi Lễ Thánh… là điều kiện tốt nhất làm cho sự tham dự được sống động”[1].
Ngày 29/6/2022, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ban hành Tông thư Desiderio Desideravi về đào tạo phụng vụ cho dân Thiên Chúa với mong muốn giúp mọi người “nhận ra tầm quan trọng của nghệ thuật cử hành để phục vụ cho chân lý của mầu nhiệm Vượt Qua và sự thông phần mầu nhiệm ấy nơi tất cả những người đã được rửa tội, mỗi người tùy theo ơn gọi của mình”[2].
I. NHỮNG NGUYÊN TẮC NỀN TẢNG
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã dành phần cuối của Tông thư Desiderio Desideravi (số 48-65) để suy tư và đưa ra những hướng dẫn liên quan đến nghệ thuật cử hành - ars celebrandi. Những kiến thức căn bản cần có được đề cập tại số 49:
Như bất kỳ nghệ thuật nào, ars celebrandi đòi hỏi nhiều loại kiến thức khác nhau. Trước tiên, nghệ thuật này đòi hỏi phải hiểu biết về tính năng động trong Phụng vụ. Cử hành phụng vụ là lúc tưởng niệm mầu nhiệm Vượt Qua được hiện tại hóa, để các tín hữu, khi tham dự, có thể cảm nghiệm mầu nhiệm ấy trong cuộc sống. Nếu không có sự hiểu biết này, việc cử hành có thể chỉ bận tâm đến hình thức bên ngoài (hơn kém về mức độ tinh tế) hoặc quan tâm đến luật chữ đỏ (hơn kém về tính cứng nhắc).
Sau đó, cần phải biết về cách thức Chúa Thánh Thần tác động trong mỗi cử hành. Nghệ thuật cử hành phải hòa hợp với hành động của Thánh Thần. Chỉ như vậy, nghệ thuật cử hành mới thoát khỏi tính cách chủ quan, chiều theo thị hiếu cá nhân. Chỉ bằng cách này, nghệ thuật cử hành mới thoát khỏi sự xâm nhập của các yếu tố văn hóa chưa được phân định và không liên quan gì đến việc hội nhập văn hóa đúng nghĩa.
Cuối cùng, cần phải hiểu về tính năng động, về bản chất đặc thù và những hiệu năng của ngôn ngữ biểu tượng.
1. Tính năng động trong phụng vụ
Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo tóm lược phần trình bày về những người cử hành phụng vụ tại số 1144:
Toàn thể cộng đoàn đều là “người cử hành phụng vụ”, mỗi người tùy theo phận vụ của mình, nhưng “trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần”, Đấng hoạt động trong mọi người. “Trong các cử hành phụng vụ, thừa tác viên hay tín hữu, mỗi người theo phận vụ của mình, chỉ làm và làm trọn vẹn những gì thuộc phận vụ của mình theo bản chất của sự việc và các quy tắc phụng vụ” (x. Sacrosanctum Concilium, 28).
Thật vậy, phụng vụ không phải là những hoạt động cá nhân riêng tư, nhưng là những cử hành của Giáo Hội, là “bí tích hiệp nhất”, thuộc về toàn Thân Thể Hội Thánh[3]. Mọi chi thể được mời gọi tham gia vào cử hành phụng vụ của Hội Thánh với chức tư tế cộng đồng nhờ bí tích Rửa Tội. Tuy nhiên, một số chi thể đã được Thiên Chúa kêu gọi để phục vụ cộng đoàn cách đặc biệt qua bí tích Truyền Chức Thánh, nhờ đó, họ có khả năng hành động trong cương vị của Đức Kitô là Đầu (in persona Christi Capitis)[4].
Trong phụng vụ, đặc biệt là trong Thánh lễ, toàn thể cộng đoàn tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô được hiện tại hóa qua việc cử hành nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần. Đây là một hành vi linh thánh, đòi buộc cả thừa tác viên lẫn cộng đoàn tín hữu trước hết phải ý thức và có tâm tình thờ phượng xứng hợp. Thiếu điều kiện tiên quyết này, người tham gia cử hành có nguy cơ chỉ dừng lại ở việc hoàn tất các thủ tục lễ nghi bề ngoài, hoặc chỉ chú tâm cách cứng nhắc vào các chỉ dẫn, làm mất đi vẻ đẹp đích thực và sinh động của cử hành Kitô giáo.
Trong nghệ thuật, cảm hứng là yếu tố quan trọng khơi nguồn cho sự sáng tạo đích thực. Người nghệ sĩ hoàn toàn tự do sáng tạo từ những ý tưởng ban đầu, nhưng cũng cần dựa trên những kiến thức kỹ thuật căn bản. Cũng vậy, mọi cảm hứng hay ý tưởng trong nghệ thuật thánh nói chung hay nghệ thuật cử hành phụng vụ nói riêng, đều xuất phát từ vẻ đẹp vô biên của Thiên Chúa, góp phần ca tụng tôn vinh Thiên Chúa, giúp tâm trí con người thành kính hướng về Thiên Chúa[5]. Do đó, nghệ thuật cử hành trong phụng vụ không thể tùy tiện, ngẫu hứng nhằm thỏa mãn thị hiếu của một cá nhân hay nhóm người nào đó, mà bỏ quên mục tiêu của việc cử hành là tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa con người. Phải làm sao để việc cử hành “không những gợi nhớ các biến cố đã giải thoát chúng ta, mà còn làm cho các biến cố đó hiện diện và tác động trong hiện tại”[6]. Vì thế, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắn nhủ người tham gia phụng vụ: “Phải luôn dành trọn tâm ý cho việc cử hành, để chính việc cử hành truyền tải nghệ thuật cho chúng ta”[7].
Toàn thể cộng đoàn phụng vụ đều cần đến nghệ thuật cử hành, nhưng các thừa tác viên đã lãnh chức thánh càng phải quan tâm đặc biệt hơn. “Những người đã lãnh Bí tích Truyền Chức có nhiệm vụ không thể chối từ trong việc giữ cho nghệ thuật cử hành được đúng đắn. Các Giám mục, linh mục và phó tế, mỗi người theo chức năng của mình, phải xem việc cử hành như bổn phận chính của mình”[8]. Nghệ thuật cử hành phải giúp tăng cường ý thức linh thánh và đẩy mạnh việc sử dụng các hình thức bên ngoài nhằm giáo dục ý thức ấy. Muốn mang lại lợi ích đó cho cả cộng đoàn phụng vụ, trước tiên linh mục “phải ý thức sâu sắc về sự hiện diện đặc biệt của Chúa Kitô Phục sinh. Chính bản thân thừa tác viên đã lãnh chức thánh là một trong những cách thức hiện diện của Chúa, điều này làm cho cộng đoàn Kitô hữu trở nên độc đáo, khác với bất kỳ cộng đoàn nào khác”[9]. Khi biết đặt mình ở giữa trái tim Chúa Giêsu đang bừng cháy lửa yêu thương và trái tim của mỗi tín hữu, đối tượng của tình yêu Chúa, tất cả các cử chỉ và lời nói của vị chủ sự trong nghi thức cử hành sẽ mang lấy chiều sâu bí tích, và giúp cho cộng đoàn cảm nhận được điều Chúa khát mong hiện tại, như trong Bữa Tiệc Ly năm xưa, là được ăn lễ Vượt Qua với chúng ta[10].
2. Hòa hợp với hành động của Chúa Thánh Thần
Trong phụng vụ, Chúa Thánh Thần là nhà sư phạm về đức tin cho Dân Thiên Chúa. “Ngài chuẩn bị cho Hội Thánh gặp gỡ Chúa của mình; Ngài nhắc nhớ và làm tỏ hiện Đức Kitô cho đức tin của cộng đoàn; Ngài làm cho hiện diện và hiện tại hóa mầu nhiệm của Đức Kitô bằng quyền năng biến đổi của Ngài; sau cùng, Thánh Thần của sự hiệp thông kết hợp Hội Thánh vào đời sống và sứ vụ của Đức Kitô”[11]. Vì thế, mọi phương thế hay công cụ trong phụng vụ phải phục vụ bản chất của Phụng vụ và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Nói cách khác, nghệ thuật cử hành phải hòa hợp với hành động của Thánh Thần.
Không ý thức hay giành mất vai trò của Chúa Thánh Thần trong Phụng vụ, chủ sự dễ có “thái độ đề cao bản thân trong phong cách cử hành, đôi khi thể hiện cách lộ liễu thói tật muốn trở thành trung tâm của sự chú ý”. Từ đó đưa đến nhiều biểu hiện không phù hợp trong cử hành được Đức Giáo Hoàng Phanxicô cảnh báo: “khắc khổ cứng nhắc hoặc sáng tạo quá đáng, thần bí hóa hoặc duy chức năng, nhanh chóng vội vàng hoặc chậm chạp quá mức, bất cẩn cẩu thả hoặc tỉ mỉ cực đoan, thân thiện quá đáng hoặc vô cảm lạnh lùng” khiến nhiều cộng đoàn phải khốn khổ[12].
Đức Giáo Hoàng đặc biệt lưu ý đến việc giữ thinh lặng, một hành động được quy định rõ trong luật chữ đỏ. Nhiều người nghĩ thinh lặng dễ đưa đến sự trống rỗng nên muốn lấp đầy bằng đủ thứ vô nghĩa và xa lạ. Thực ra, thinh lặng thánh là “biểu tượng của sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Thần, Đấng làm sinh động toàn bộ việc cử hành. Vì thế, thinh lặng là cao điểm của một trình tự phụng vụ. Chính vì là biểu tượng của Thánh Thần, nên thinh lặng có sức mạnh thể hiện hành động đa dạng của Thánh Thần”[13]. Các linh mục phải xác tín điều này để cùng với cộng đoàn phụng vụ “thực hiện thật sốt sắng phút thinh lặng như một động tác mang tính biểu tượng, để qua đó chúng ta được Chúa Thánh Thần uốn nắn”[14]. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma (QCSL) nhắc nhở: “Tính chất của sự thinh lặng tùy thuộc vào lúc phải giữ trong mỗi cử hành. Thật vậy, trong nghi thức sám hối và sau lời mời cầu nguyện, là để mọi người hồi tâm lại; sau bài đọc hoặc bài giảng là để mọi người suy gẫm vắn tắt về những gì đã nghe; còn sau khi rước lễ thì để ca ngợi và cầu xin Thiên Chúa trong lòng”[15].
Bên cạnh sự thinh lặng, mỗi cử chỉ điệu bộ hay lời nói được đặt tại những thời điểm khác nhau của cử hành phụng vụ đều mang một ý nghĩa sâu xa và chứa đựng một tác động chính xác, qua đó Chúa Thánh Thần thực hiện sứ vụ giúp người tín hữu “hiệp thông với Đức Kitô để làm nên Thân Thể Người”[16]. Thao thức mục vụ đôi khi gợi cho linh mục các sáng kiến chủ quan và không phù hợp với bản chất của phụng vụ. Ý thức cử hành phụng vụ trong sự hòa hợp với tác động của Chúa Thánh Thần sẽ giúp các linh mục tránh xa việc “tự ý thêm bớt hay thay đổi” hoặc lạm dụng kỷ luật trong phụng vụ của Giáo hội.
Linh mục thông phần cách đặc biệt vào việc cử hành phụng vụ nhờ ân sủng của bí tích Truyền Chức Thánh. Vai trò chủ sự không phải là một bổn phận do cộng đoàn giao cho linh mục, nhưng là hệ quả của việc tuôn đổ Thánh Thần trên linh mục qua nghi lễ truyền chức. Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục hành động uốn nắn đào tạo linh mục trong các cử hành phụng vụ. Trong khi thi hành thánh chức qua việc chủ sự trong cộng đoàn phụng vụ, các linh mục phải để cho mình được Chúa Thánh Thần tác động, để Người hoàn tất việc Người đã khởi sự nơi họ trong ngày họ được truyền chức[17]. Tông huấn Desiderio Desideravi giải thích rõ:
Tác động của Thánh Thần giúp cho các linh mục có thể thi hành phận vụ chủ sự cộng đoàn Thánh Thể với tâm tình kính sợ như Phêrô, ý thức mình là người tội lỗi (Lc 5,1-11), với lòng khiêm nhường thẳm sâu của người tôi tớ đau khổ (x. Is 42tt), và với mong muốn “được ăn” bởi những người được giao phó cho mình khi thi hành tác vụ hằng ngày.
3. Bản chất và hiệu năng của ngôn ngữ biểu tượng
Cử hành phụng vụ nói chung và cử hành Thánh Thể nói riêng được kết nên nhờ các dấu chỉ và biểu tượng. Những thực tại khả giác phong phú của thế giới vật chất và đời sống xã hội khi được Phụng vụ của Hội Thánh đón nhận, hội nhập và thánh hóa sẽ trở thành “phương tiện diễn tả hành động của Thiên Chúa, Đấng thánh hóa loài người, và diễn tả hành động của con người, những kẻ phụng thờ Thiên Chúa”[18]. Ý nghĩa của các dấu chỉ và các biểu tượng gắn liền với công trình tạo dựng và văn hóa nhân loại, được xác định qua các biến cố cứu độ, và hoàn tất tròn đầy nơi con người và công trình của Đức Kitô[19].
Các hành động biểu tượng chính là một thứ ngôn ngữ, nhưng cần có Lời Chúa và lời đáp lại của đức tin, tức kinh nguyện, đi kèm thì ý nghĩa mới rõ ràng chính xác và cuộc gặp gỡ đối thoại của con cái Thiên Chúa với Cha mình trong cử hành phụng vụ mới trở nên sống động[20]. Những hình thức ngôn ngữ khác nhau được sử dụng trong phụng vụ như lời nói và âm nhạc, các cử chỉ và sự thinh lặng, sự di chuyển hay các tư thế, màu sắc phụng vụ dành cho phẩm phục... đều có ý nghĩa và tác động nhất định trong khi cử hành nên cần được lưu tâm và vận dụng cách nhịp nhàng hiệu quả. “Từng cử chỉ và lời nói của cử hành phụng vụ, khi được thể hiện cách ‘nghệ thuật’, sẽ hình thành nhân cách kitô hữu của mỗi cá nhân và của cả cộng đoàn”[21].
Các cử chỉ điệu bộ cần được thể hiện nhịp nhàng với lời đọc, không thái quá cũng không chiều theo những suy diễn chủ quan, mà cần dựa trên sự hiểu biết chính xác về bản chất phụng vụ và ý nghĩa của hành động. Các cử chỉ chắp tay, dang tay, đấm ngực, cúi đầu, cúi mình… cần được thực hiện với ý thức đang hiện diện trước nhan Chúa. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói về hành động quỳ gối: “Hãy thực hiện động tác quỳ gối cách nghệ thuật, nghĩa là với nhận thức đầy đủ về ý nghĩa biểu tượng và sự cần thiết của cử chỉ này để thể hiện cách chúng ta hiện diện trước mặt Chúa”[22].
Trong vai trò chủ sự, các linh mục cần nắm chắc nguyên tắc mà Tông huấn Bí tích Tình yêu lưu ý:
Tính đơn giản của những cử điệu và sự trang nhã của những dấu chỉ thể hiện trong trật tự có sức truyền đạt và tác dụng hơn bất kỳ những gì thêm vào mà không thích hợp. Lưu tâm và trung thành với cấu trúc đặc biệt của nghi lễ vừa diễn tả một sự hiểu biết về bản chất của Thánh Thể như một quà tặng, vừa biểu lộ ý muốn của thừa tác viên đón nhận quà tặng vô giá đó bằng lòng biết ơn đầy vâng phục[23].
Các lời nói và kinh nguyện của linh mục là yếu tố quan trọng của cử hành Thánh Thể nên cần có cung giọng phù hợp với nội dung và mục đích khác nhau của chúng. Nghệ thuật thể hiện những yếu tố này được mô tả trong Tông thư Desiderio Desideravi:
Những lời mà Phụng vụ đặt trên môi miệng linh mục có những nội dung khác nhau, đòi hỏi những âm giọng đặc biệt. Tầm quan trọng của những lời này đòi hỏi một nghệ thuật đọc nói chuẩn xác. Những lời này định hình cho những cảm xúc nội tâm, lúc thì khẩn cầu Chúa Cha nhân danh cộng đoàn, lúc thì ngỏ lời huấn dụ với cộng đoàn, lúc khác thì chung lời tung hô với toàn thể cộng đoàn[24].
Qua nghệ thuật cử hành với những nguyên tắc và lưu ý trên đây cùng nhiều điều khác nữa, linh mục cùng các thừa tác viên khác và cộng đoàn tham dự sẽ được đào tạo liên tục trong chính cử hành phụng vụ, đồng thời được thông phần tích cực vào hiến lễ của Chúa Giêsu bằng cách dâng hiến chính mình trong thánh lễ đang được cử hành cũng như trong cả cuộc đời sứ vụ của mỗi người.
--- Còn tiếp ---
--------------------------------------------------------
[1] x. Bênêđictô XVI, Tông huấn Bí tích Tình yêu - Sacramentum Caritatis (22.02.2007), số 38.
[2] Phanxicô, Tông thư Desiderio Desideravi (29.06.2022), số 62
[3] CĐ Vaticanô II, Sacrosanctum Concilium, số 26.
[4] CĐ Vaticanô II, Presbyterorum ordinis, số 2.
[5] x. Sacrosanctum Concilium, số 122.
[6] Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo (GLCG), số 1104.
[7] Tông thư Desiderio Desideravi, số 50.
[8] x. Tông huấn Sacramentum Caritatis, số 39.
[9] Tông thư Desiderio Desideravi, số 57.
[10] x. Sđd.
[11] GLCG, số 1092.
[12] x. Tông thư Desiderio Desideravi, số 54.
[13] Sđd, số 52.
[14] Sđd.
[15] Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma (QCSL), số 45.
[16] GLCG, 1108.
[17] x. Desiderio Desideravi, số 59.
[18] GLCG, số 1148.
[19] x. Sđd, số 1145.
[20] x. Sđd, số 1153.
[21] Tông thư Desiderio Desideravi, số 53.
[22] Sđd.
[23] Tông huấn Sacramentum Caritatis, số 40.
[24] Tông thư Desiderio Desideravi, số 60.