NHỮNG HOA TRÁI CỦA LÒNG HOÁN CẢI.
Chú giải Tin Mừng CN III MV C (Lc 3,10-18)
8. Đang trông chờ: Hình ảnh dân đang trông chờ đưa trình thuật vào trong dòng lịch sử của dân Israel. Qua bao nhiêu thăng trầm bị xâm chiếm bởi nhiều đế quốc. Họ đã được trở về từ Babylon từ 538. Tuy nhiên, họ vẫn ở dưới sự cai trị của đế quốc Ba Tư, rồi sau đó đến đế chế Hy Lạp. Thời điểm hiện tại của trình thuật họ lại đang ở dưới ách đô hộ của đế quốc Rôma. Bối cảnh lịch sử mà Luca giới thiệu từ đầu chương ba, nhắc nhở độc giả về hoàn cảnh không mấy sáng sủa của dân. Trong phần trả lời cho câu hỏi “chúng tôi phải làm gì?” của ba thành phần tiêu biểu của dân, đặc biệt là cho nhóm những người thu thuế và những quân nhân, cũng có thấy phần nào bức tranh xã hội ảm đạm, nơi đó thiếu sự chia sẻ cơm áo. Trong xã hội đó còn những thành phần tham lam, gây đau khổ cho chính đồng bào mình để tìm lợi ích kinh tế cho mình. Trong hoàn cảnh ấy, người ta càng mong mỏi hơn về một Đấng Mêsia thời cánh chung, Đấng mang lại cho họ một cuộc sống bình an, thịnh vượng, hạnh phúc, ấm no thật sự.
9. Đấng Kitô: Khởi đầu Gioan được giới thiệu như là một ngôn sứ thời cánh chung, một tiếng người hô trong hoang địa (3,3-5). Sau đó, những người thu thuế xem ông như là một thầy dạy (3, 12). Trong lòng dân chúng tự hỏi biết đâu ông cũng chính là Đấng Kitô mà họ đang mong đợi. Đấng Kitô (Khristos) trong tiếng Hy Lạp, có gốc trong tiếng Do Thái là (Masiah), có nghĩa là “người được xức dầu”. Trong truyền thống Cựu Ước, danh xưng này không có một nghĩa duy nhất, nhưng nó dùng để diễn tả nhiều loại người khác nhau được Chúa xức dầu. Nó thường được dùng cho vua Israel (Saul, Đavid, hậu duệ của Đavid), nhưng thỉnh thoảng nó cũng được dùng cho những người khác (Thượng Tế, thậm chí Cyrus, vua Ba Tư). Tuy nhiên, trong những thế kỷ cuối cùng tiền Kitô giáo của Do Thái Giáo, đã xuất hiện một niềm mong chờ Đấng Mêsia, một vị vua thuộc dòng Đavid, hay là một Đấng được xức dầu do Chúa gửi đến nhằm phục hồi vương quốc Israel. Vào thời Đức Giêsu, danh xưng Mêsia có thể diễn tả một Đấng được xức dầu, được mong đợi do Chúa gửi đến trong dòng dõi Đavid, vua hay chính trị nhằm phục hồi Israel hay bày tỏ vinh quang và triều đại Thiên Chúa[12].
10. Bằng nước … trong Thánh Linh và lửa: Thắc mắc trong lòng dân chúng chính là cơ hội để cho Gioan bày tỏ căn tính của mình và giới thiệu về Đấng Kitô. Có hai hình thức Gioan phân biệt giữa ông và Đấng Kitô. Thứ nhất, về vị thế. Đấng Kitô dù đến sau, nhưng quyền năng hơn ông. Khoảng cách giữa vị thế của ông và của Đấng Kitô được ông mô tả bằng hình ảnh “không xứng đáng cởi quai dép cho”. Cởi quai dép là hành động của một người nô lệ, tôi tớ dành cho ông chủ của mình[13]. Cụm từ “không đáng xách dép” cho ai đó, để mô tả sự bất xứng của một người trước một người khác ở vị thế cao trọng hơn, có lẽ tương ứng với ý tưởng của Gioan ở đây. Gioan ngụ ý rằng, ông không xứng đáng làm tôi tớ của của Đấng Kitô. Dân chúng nghĩ ông là Đấng Kitô, nhưng người mà dân chúng thấy vẫn chưa xứng đáng là tôi tớ của Đấng Kitô. Điều Gioan cảm nghiệm có thể là sự thật nếu so sánh giữa ông và Đức Giêsu. Tuy vậy, nó vẫn cho thấy một sự khiêm hạ đúng mực của vị ngôn sứ tiền hô của Chúa. Đức Giêsu cũng dành cho Gioan một sự tôn trọng không kém khi nói rằng: “Trong số những người phàm đã lọt lòng mẹ, không hề có ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả” (Lc 7, 28; Mt 11, 11). Ngoài ra, Đức Giêsu còn nhìn nhận Gioan là một vị ngôn sứ, mà còn hơn cả ngôn sứ nữa (x. Lc 7, 26).
Thứ hai, điểm phân biệt chính yếu giữa Gioan và Đấng Kitô là Phép Rửa. Trong khi Gioan rửa bằng nước, hay dìm người ta trong nước, Đấng Kitô rửa người ta trong Thánh Linh và lửa. Máccô chỉ nói đến Phép Rửa trong Thánh Linh, trong khi cả Mátthêu và Luca thêm vào “lửa” (x. Mt 3, 11; Mc 1, 8). Cả hai hình ảnh lửa và Thánh Linh đều bao hàm một cuộc thanh tẩy cánh chung mà những hối nhân phải trải qua bởi lối sống vô luân và thiếu vắng Chúa[14]. Phép Rửa bằng cách dìm trong nước của ông Gioan tại sông Giorđan có rất nhiều giá trị biểu tượng. Trước hết, dòng sông Giorđan là nơi mà dân Israel đã băng qua để tiến vào đất Canaan. Trước khi băng quan sông Giorđan, họ cũng đã băng qua nước Biển Sậy ráo chân (Xh 14). Nước cũng chính là hình ảnh thanh tẩy và hủy diệt những con người tội lỗi và cứu sống gia đình công chính của ông Nôê trong câu chuyện Lụt Hồng Thủy (St 6 – 9). Gioan đang chuẩn bị cho một dân mới băng qua sông Giorđan đi về miền đất hứa mới. Tuy nhiên, Phép Rửa trong nước phải dẫn đến phép rửa trong Thánh Linh và lửa. Hình ảnh lửa được nhắc đến cả phía trước và phía sau đoạn này như là một phương tiện trừng phạt. Trước đó, Gioan nói rằng “cây rìu đã đặt sát gốc cây, cây nào không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa” (3, 9). Sau đó, Gioan nói rằng Đấng Kitô sẽ đốt vỏ trấu với lửa không hề tắt (3, 17). Xem ra, “Phép Rửa trong lửa” không tránh khỏi cách hiểu như là một sự phán xét và trừng phạt[15]. Trong các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm, Mátthêu nhiều lần dùng hình ảnh “lửa” để diễn tả hình phạt cánh chung (“Ai chửi anh em mình là quân phản đạo thì sẽ bị lửa hỏa ngục thiêu đốt” [5, 22]; “Cây nào không sinh quả tốt thì bị chặt đi và quăng vào lửa” [7, 19]). Tuy nhiên, lửa cũng có ý nghĩa thanh luyện và thanh tẩy con người. Ngôn sứ Malakhi nói đến Chúa đến trong thời cánh chung. Người như lửa luyện kim và như thuốc tẩy của thợ giặt (Ml 3, 2). Ngôn sứ Dacaria nói đến việc Chúa cho một phần ba dân qua lửa, luyện họ như người ta luyện bạc và thử chúng như thử vàng” (Dcr 13, 9). Đức Giêsu của Luca cũng nhắc đến lửa thanh luyện và thử thách khi Người nói “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất và Thầy ước chi lửa ấy đã bùng lên. Thầy còn một Phép Rửa nữa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc 12,49)[16]. J. Fitzmyer cho rằng đây là Phép Rửa bằng lửa mà Đức Giêsu không chỉ tiến hành cho người khác nhưng chính Người cũng phải trải qua. Đấng là phép rửa với lửa phải đối diện với thử thách và khủng hoảng mà hình ảnh ấy diễn tả[17]. Phép rửa trong Thánh Linh đặc biệt được nhấn mạnh trong tác phẩm của Luca. Trong truyền thống Luca – Công Vụ, Phép Rửa trong Thánh Linh và lửa chắc chắn nhắc nhớ đến biến cố trong ngày Lễ Ngũ Tuần, trong đó Thánh Linh đã xuất hiện như hình lưỡi lửa đậu trên từng người (Cv 2,3.19). Ngay sau biến cố Ngũ Tuần, ông Phêrô đã rao giảng và kêu gọi: “Anh chị em hãy hoán cải, và mỗi người chịu Phép Rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội và anh chị em sẽ nhận được ân sủng là Thánh Linh” (Cv 2, 38). Kế đến, trong câu chuyện ông Phêrô làm phép rửa cho gia đình ông Cornêlio, Thánh Linh đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe ông Phêrô rao giảng trong nhà ông Cornelio. Cuối cùng, ông đã thốt lên “Những người này đã nhận được Thánh Linh cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm Phép Rửa cho họ? Rồi ông truyền làm Phép Rửa cho họ nhân danh Đức Giêsu Kitô.” (Cv 10,47-48). Thêm vào đó, Công Vụ ghi lại sự phân biệt giữa Phép Rửa của Gioan Tẩy Giả và Phép Rửa nhân danh Đức Giêsu có sự ngự xuống của Thánh Linh (x. Cv 19,1-7). Trong cả hai trường hợp, họ đều chịu Phép Rửa nhân danh Đức Giêsu, nhưng điều có Thánh Linh ngự xuống trên họ. Khi Đức Giêsu chịu Phép Rửa tại sông Giorđan, Thánh Linh cũng ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu (Lc 3, 22). Theo lời của Gioan, Đấng đã sai ông đi làm Phép Rửa trong nước đã bảo ông rằng “ngươi thấy Thánh Linh đi xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm Phép Rửa trong Thánh Linh” (Ga 1, 33). Rửa trong Thánh Linh hẳn là được Thánh Linh ngự xuống, ở lại, thánh hóa, biến đổi, và hướng dẫn mọi hành vi của người được thanh tẩy. Chính Đức Giêsu sau khi chịu Phép Rửa, được đầy tràn Thánh Linh từ sông Giorđan trở về, đã được Thánh Linh dẫn đi trong sa mạc, chịu quỷ cám dỗ (Lc 4,1-2). Dường như Đức Giêsu cũng trải qua sự thanh tẩy của dân Israel trong hoang địa và của Ađam trong vườn Êđen. Cuộc thanh luyện, sự thử thách về lòng trung thành và vâng phục của Đức Giêsu lên đến cao điểm và hoàn tất trong cuộc Thương Khó của Người. Theo thánh Phaolô, các tín hữu được “tẩy rửa, được thánh hóa, được nên công chính, nhờ danh Đức Giêsu Kitô và nhờ Thánh Linh của Thiên Chúa chúng ta” (1 Cr 6, 11). Sứ vụ làm Phép Rửa trong Thánh Linh được Đức Giêsu hứa trao cho các môn đệ trước biến cố Ngũ Tuần: “Gioan làm Phép Rửa với nước, nhưng trong vài ngày nữa anh em sẽ chịu Phép Rửa trong Thánh Linh” (Cv 1, 5; 11, 16).
11. Làm sạch lúa đã dạp … để thu gom lúa … đốt đi với lửa không hề tắt: Đây là những hình ảnh diễn tả những hành động của Đấng Mêsia trong thời cánh chung[18]. Hình ảnh này liên hệ chặt chẽ với hình ảnh “cây rìu đã kề sát gốc cây, bất kỳ cây nào không sinh hoa trái tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Lc 3, 9). Mátthêu có nhiều dụ ngôn diễn tả hình ảnh cuộc phán xét tương tự. Trong dụ ngôn cỏ lùng và lúa, đến ngày mùa ông chủ sẽ cho gom cỏ lùng lại bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì thu vào kho (x. Mt 13, 30). Đức Giêsu giải thích dụ ngôn cỏ lùng và kết luận “người ta nhặt lấy cỏ lùng và lấy lửa đốt đi thế nào, thì ngày tận thế cũng xảy ra như vậy” (Mt 13, 40). Trong dụ ngôn chiếc lưới thả xuống biển. Sau khi lưới kéo lên được cả cá xấu lẫn cá tốt, người ta nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đức Giêsu kết luận rằng “ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt người xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính rồi quăng chúng vào lửa” (x. Mt 13,49-50). Dĩ nhiên, điểm tập trung là ở lúa tốt được thu vào chứ không phải là “lúa lép” bị đốt đi. Thiên Chúa luôn mong ước tất cả đều là lúa tốt và được đưa vào “kho”[19]. Tuy nhiên, thực tế, vẫn có những vỏ trấu bị thải ra và đốt đi. Đó là chọn lựa tự do của mỗi người. Trong Thánh Vịnh 1, những người xấu xa được ví như là vỏ trấu giỏ thổi bay, còn người công chính được ví như cây trồng bên bờ suốt, luôn luôn xanh tươi cành lá và sinh hoa kết quả đúng mùa.
12. Cứ rao giảng tin mừng: Động từ rao giảng tin mừng (tin vui) (euangelizesthai) được dùng ở thì chưa hoàn thành, diễn tả một hành động lặp lại liên tục hoặc kéo dài. Tuy nhiên, vì nội dung tin vui thì không được đề cập đến nên có nhiều cách hiểu khác nhau. M.D. Hamm cho rằng Luca kết với câu tóm tắt về việc Gioan rao giảng Tin Mừng nghe có vẻ kỳ quặc. Ông đề nghị cách hiểu Tin Mừng trong bối cảnh này là sau khi đã đốn hạ những cây không có trái tốt và đốt đi những vỏ trấu vô ích, sau tất cả, những hình ảnh của công lý Thiên Chúa, Tin Mừng của Chúa làm cho thời kỳ lưu đày kết thúc, cuộc trở về đất hứa mới, tất cả xác phàm thấy ơn cứu độ của Chúa. Tuy nhiên, tiến trình giải thoát này vẫn cần sinh những hoa trái của lòng hoán cải, đáp ứng nhu cầu của cơ bản (cơm ăn áo mặc) của con người, xóa sạch những bất công, lạm dụng quyền lực trong xã hội[20]. L. Johnson đơn giản cho rằng vì Gioan là một vị ngôn sứ trong dân nên thông điệp của ông có giá trị Tin Mừng[21]. Theo J. Green, động từ “rao giảng tin vui” là một lối diễn tả Luca dung để mô tả Gioan như là sứ giả vui được Isaia nói đến. Nó bao gồm tiếng hô trong sa mạc đã được trích lại trong Lc 3,3-5. Is 52, 7 nói đến nét đẹp của bước chân sứ giả mang tin vui, công bố sự bình an, loan báo ơn cứu độ, người nói với Sion rằng “Chúa của ngươi hiển trị”[22]. J. Fitzmyer cho rằng động từ này chỉ nên hiểu là rao giảng chứ không có nghĩa là “rao giảng tin mừng.” Trong bối cảnh này, Gioan được mô tả như người cổ vũ, dùng nhiều lời khích lệ và giảng cho dân[23]. Nếu đọc Tin Mừng Mátthêu, độc giả sẽ thấy thông điệp Tin Mừng mà Gioan rao giảng giống y chang như là thông điệp của Đức Giêsu: “Ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giuđê rằng: “Anh chị em hãy hoán cải vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3, 1)// “Lúc ấy Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: ‘Anh chị em hãy hoán cải, vì Nước Trời đã đến gần’” (Mt 4, 17). Trong bối cảnh của Lc 3,1-20, tin mừng mà Gioan rao giảng rất có thể là những chỉ dẫn cho hành trình hoán cải như ông đã trình bày cho ba nhóm người (đám đông, những người thu thuế và các quân nhân) và cũng có thể là những thông tin về Đấng Mêsia.
Bình luận tổng quát
Sau khi giới thiệu Gioan như là vị ngôn sứ được mời gọi rao giảng Phép Rửa của lòng hoán cải để được ơn tha thứ (3, 3), Luca giờ đây mô tả những hoạt động và lời giảng cụ thể trong sứ vụ của Gioan. Nhiều đám đông đến với ông để xin ông làm Phép Rửa. Ông khuyên những người đồng hương Do Thái phải sinh hoa trái xứng với lòng hoán cải (3, 8). Ông cũng cảnh báo họ về số phận nghiệt ngã của những cây không sinh quả tốt: “Bị đốn ngã và quăng vào lửa” (3, 9). Trong bối cảnh đó cuộc đối thoại giữa vị Tẩy Giả và những hoán cải nhân được diễn ra. Họ muốn sinh “hoa trái tốt” để khỏi bị “đốn ngã và quăng vào lửa”. Đây là dữ liệu riêng của Luca. Cả Máccô lẫn Mátthêu đều không có phần đối thoại đặc biệt này. Luca mô tả ba nhóm người, có lẽ tượng trưng cho tất cả các thành phần trong xã hội Do Thái thời bấy giờ. Cả ba nhóm cũng hỏi chung một câu hỏi: “Chúng tôi phải làm gì?” (3,10.12.14).
Nhóm đầu tiên là đám đông, có thể là tượng trưng cho bất cứ ai, thuộc lứa tuổi nào trong xã hội. Điều cần thiết nhất mà họ phải làm để “sinh hoa trái xứng với lòng hoán cải” là quan tâm và chia sẻ những nhu cầu cần thiết cho những người chung quanh mình. Hai hình ảnh “áo” và “lương thực” là hai hình ảnh tượng trưng cho tất cả những nhu cầu thiết yếu nhất của con người. Muốn làm được những điều này, giả định người ta phải có trái tim nhạy cảm, đôi mắt xót thương để nhìn thấy và cảm được sự thiếu thốn của người khác. Hơn nữa, họ cũng giả định phải có lòng quảng đại để dám chia sẻ những gì mình có. Cái Gioan muốn làm là đánh thức con tim bằng thịt nơi tất cả mọi người, để ai nấy biết quan tâm chia sẻ với nhau. Lời mời gọi của Gioan gợi nhớ đến điều răn lớn nhất và đứng đầu trong các điều răn: “Yêu mến người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18 Lc 10,25-28). Nó cũng nhắc nhớ đến điều Chúa ưa chuộng: “Chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt trước người cốt nhục” (Is 58, 7). Ông Tôbít trong truyền thống Cựu Ước cũng dạy con mình: “Đối với người nghèo khổ con đừng ngoảnh mặt làm ngơ… tùy có bao nhiêu hãy cho bấy nhiêu, có nhiều thì cho nhiều, có ít đừng ngại cho ít” (Tb 4,7-8); “Hãy chia cơm sẻ áo cho người đói rách. Phàm là của dư thừa, con hãy lấy mà bố thí, và mắt con đừng có so đo trong việc bố thí của con” (Tb 4, 16). Chia sẻ với người túng thiếu là điểm quan trọng trong giáo huấn của Đức Giêsu: “Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh thì đừng ngoảnh mặt đi” (Lc 6,29b-30).
Nhóm những người thu thuế tượng trưng cho những người làm tay sai cho đế quốc, có nguy cơ tham nhũng, tham lam tiền bạc, đè thêm gánh nặng lên dân nghèo. Việc họ cần làm là không được thu thêm ngoài những khoản đã được ấn định. Làm được như thế họ có thể chế ngự được lòng tham của mình. Ngoài ra, họ góp phần tạo ra một xã hội công bằng, xóa bỏ bất công và làm cho người nghèo bớt khổ.
Nhóm lính tráng tượng trưng cho những quan chức trong xã hội. Cũng như những người thu thuế, họ có nguy cơ tham lam và dùng quyền lực để tống tiền người khác. Những hành động của họ bao hàm cả sự đàn áp, hiếp đáp và thu lợi từ dân nghèo. Nguyên nhân của những hành động ấy là vì họ không thỏa mãn với đồng lương của mình. Họ được mời gọi thấy vừa, thấy đủ với đồng lương của mình. Cả hai nhóm lính tráng và những người thu thuế, đều có chung một nguy cơ xa rời Chúa vì ham mê tiền của. Đức Giêsu lưu ý rằng “không ai có thể làm tôi hai chủ, hoặc sẽ yêu chủ này mà ghét chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc 16, 13; Mt 6, 24). Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa (Lc 18,24-25; Mt 19,23-26; Mc 10,23-27).
Cả ba thành phần tượng trưng cho tất cả mọi loại người trong xã hội. Những gì Gioan đề xuất cho từng nhóm người vừa cụ thể, gần gũi với đời sống thường ngày của từng nhóm, nhưng cũng vừa phổ quát cho tất cả mọi người. Một xã hội của Đấng Mêsia là một xã hội của những con người biết yêu thương, quan tâm, săn sóc lẫn nhau. Thành viên của vương quốc Đấng Mêsia là những người biết sống chừng mực, bằng lòng với đồng lương, thu nhập của mình, cổ vũ công bình, xóa bỏ mọi bất công trong xã hội. Vương quốc của Đấng Mêsia sẽ là là vương quốc hòa bình “công lý, lòng nhân, và thành tín” (Mt 23, 23). Tất cả mọi người đều được mời gọi theo đuổi những giá trị ấy, thì mới chứng tỏ họ đang chuẩn bị con đường cho Chúa và làm ngay thẳng lối đi của Người.
Với Phép Rửa và những thông điệp ấy, dân chúng bắt đầu phân vân về căn tính Mêsia nơi Gioan. Thế giá của ông làm cho người ta nghĩ rằng ông chính là Đấng Mêsia. Tuy nhiên, chính Gioan đã thừa nhận rằng Đấng Mêsia quyền thế hơn ông. Khoảng cách quyền năng lớn đến độ ông không xứng tầm, để làm một đầy tớ cởi quai dép cho Người. Điểm khác biệt lớn là Phép Rửa của ông và Phép Rửa của Đấng Mêsia. Phép Rửa trong nước đối lại với Phép Rửa trong Thánh Linh và lửa. Phép Rửa trong nước mang đến cho người ta một ý thức về thân phận tội lỗi và cần thiết phải hoán cải để được ơn tha thứ. Tác động của Thánh Linh và lửa giúp thanh tẩy, thanh luyện trí lòng con người, giúp họ bước đi trong sự hướng dẫn của Thánh Linh. Lửa thanh tẩy con người khỏi mọi thói hư tật xấu của xác thịt, Thánh Linh dẫn con người đi trong sự công chính, thánh thiện của Chúa. Thánh Phaolô nói rằng Đức Kitô đã “cứu chúng ta nhờ Phép Rửa ban ơn Thánh Linh để chúng ta được tái sinh và đổi mới” (Tt 3, 5). Ông khuyên các tín hữu “phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, phải để Thánh Linh đổi mới tâm trí và phải mặc lấy con người mới, là con người được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống thánh thiện và công chính” (Ep 4,22-24; cf. Cl 3, 10). Chính Đức Giêsu cũng được Thánh Linh dẫn di trong hoang địa để trải qua cơn cám dỗ trong sa mạc của dân thánh và Người cũng chịu Phép Rửa bằng lửa thử thách, thanh tẩy nơi cuộc Vượt Qua của Người để học được thế nào là vâng phục và trung tín (x. Dt 5, 8; Pl 2, 8).
---Hết---
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
https://josephpham-horizon.blogspot.com/2021/12/nhung-hoa-trai-cua-long-hoan-cai-chu.html (cập nhật ngày 13/12/2024)
[12] J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke I–IX, 198; xem thêm về “Đấng Kitô” trong J.P.D. Thạch, “Khởi Đầu Tin Vui của Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa”, [LỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: KHỞI ĐẦU TIN VUI CỦA ĐỨC GIÊSU KITÔ CON THIÊN CHÚA (josephpham-horizon.blogspot.com)].
[13] J. Nolland, Luke 1:1-9:20, 151.
[14] J. Nolland, Luke 1:1-9:20, 155.
[15] M.D. Hamm, “Luke”, The Paulist Biblical Commentary (Ed. R.J. Clifford et al.) (New York 2018) 1045.
[16] J. Nolland, Luke 1:1-9:20, 708.
[17] J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke I–IX, 995.
[18] “It is used here as an eschatological image of the sorting out of human beings according to their worth, to be accomplished by him who is the more powerful one” (J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke I–IX, 474).
[19] J. Nolland, Luke 1:1-9:20, 155.
[20] M.D. Hamm, “Luke”, The Paulist Biblical Commentary, 1046.
[21] L.T. Johnson, The Gospel of Luke (SP3; Collegeville 2005) 66.
[22] J.B. Green, The Gospel of Luke (NICNT; Grand Rapids, 1997) 183.
[23] J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke I–IX, 475.