NIỀM VUI CHIA SẺ NIỀM VUI ĐẦY.
Chú Giải Tin Mừng Chúa Nhật IV MV C
(Lc 1,39-45.56)
7. Đầy Thánh Linh: Pnêuma (πνεύμα) trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là gió, khí, hơi, tinh thần. “Hagion” (ἁγίος) có nghĩa là “thánh”. “Pnêuma hagion” (πνεύματος ἁγίου) dịch sát nghĩa là “Tinh Thần Thánh” hoặc “Khí Thánh”. Bản dịch Tiếng Anh là Holy Spirit (ESV); Tiếng Ý là Spirito Santo (CEI); Tiếng Pháp là Saint Esprit (TOB). Bản Tiếng Việt (Công Giáo) là “Thánh Thần” (CGKPV; NTT). Bản Tiếng Việt (Tin Lành) là “Thánh Linh” (NVB). Xem ra cách chuyển ngữ của Tin Lành nghe dễ chịu hơn. Tuy nhiên, người Công Giáo quen với cách gọi là “Thánh Thần” hay “Thần Khí”. Nên nhớ là trong nguyên ngữ thuật ngữ này không có chút gì là “Thần” cả. Cụm từ “đầy Pnêuma thánh” (đầy Thánh Thần) là một cụm từ mang đậm nét văn chương và thần học Luca. Gioan Tẩy Giả đã được sứ thần tiền báo là “đầy Pnêuma thánh” ngay khi còn trong dạ mẹ (Lc 1, 15). Bà Elisabet được “đầy Pnêuma thánh” sau khi nghe lời chào của Đức Maria (Lc 1, 41). Có thể đây là khoảnh khắc ứng nghiệm lời tiền báo về việc Gioan được “đầy Pnêuma thánh” khi còn ở trong lòng mẹ. Ông Dacarias cũng được “đầy Pnêuma thánh” trước khi nói tiên tri (Lc 1, 67). Như vậy, cả gia đình của ông Dacarias đều được đầy “Pnêuma thánh”. Đức Giêsu sau khi chịu phép rửa tại sông Gio-đan, được “Pnêuma thánh” ngự xuống trên mình và được đầy “Pnêuma thánh” trở về từ sông Giođan” (Lc 4, 1). Rồi được “Pnêuma thánh” dẫn đi trong hoang địa suốt 40 ngày chịu ma quỷ cám dỗ (Lc 4, 2). Trong sách Công vụ Tông Đồ, tác giả tiếp tục cho thấy nhóm các Tông Đồ cùng những người hiện diện trong phòng Tiệc Ly “đầy Pnêuma thánh” và bắt đầu nói những ngôn ngữ khác như “Pnêuma thánh” ban cho (Cv 2, 1). Cá nhân thánh Phêrô cũng được “đầy Pnêuma thánh” và cất lời rao giảng sau phép lạ “Cho người què đi được” (Cv 4, 8). Thánh Phaolô cũng được “đầy Pnêuma thánh” khi ông Anania đặt tay trên ông theo lệnh của Đức Giêsu (Cv 9, 17; Cf. 13, 9). Thánh Stephano cũng được cho là “đầy Pnêuma thánh” khi ông được tuyển chọn và khi sắp bị ném đá: “Đầy Pnêuma thánh” (Cv 6, 5), ông đăm đăm nhìn trời và thấy vinh quang Thiên Chúa và Đức Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cv 7, 55). Phaolô cùng Banaba cảm thấy đầy niềm vui và “đầy Pnêuma thánh” khi bị những người Do Thái trục xuất (Cv 13, 52). Theo mẫu thức Luca thường sử dụng: “…Đầy Pnêuma thánh … nói:…” được áp dụng cho cả ông Dacarias (1, 67), nhóm Các Tông Đồ (Cv 2, 1), và Phêrô (4, 48), thì ở đây bà Elisabet cũng được “đầy Pnêuma thánh” và kêu lên một tiếng lớn. Như thế, phần “và bà Elisabet được đầy Pnêuma thánh” nên phần đầu của 1, 42 chứ không phải phần cuối của 1,41[8]. Như vậy, Lc 1, 42 sẽ trở thành: “Và bà Elisabet được đầy Pnêuma thánh và bà kêu lên một tiếng kêu lớn: “Em có phúc giữa những người phụ nữ và hoa trái trong lòng em cũng được chúc phúc”. Trong bối cảnh này, “Pnêuma thánh” làm cho bà biện phân được ý nghĩa sự chuyển động của hài nhi trong bụng của bà và làm cho bà cất giọng về sự nhận biết Đức Maria cũng như hài nhi chưa chào đời trong lòng cô[9].
8. Kêu lên một tiếng kêu lớn: Đây là lối diễn tả cho một cảm giác phấn khích tột cùng. Cấu trúc bao gồm: Một động từ có nghĩa “kêu la” + danh từ “tiếng kêu” + tính từ “to lớn” đi kèm với tiếng kêu (ἀνεφώνησεν κραυγῇ μεγάλῃ). Có lẽ, không còn cách nào có thể diễn tả hơn nữa cường độ của hành động “kêu lên” của bà Elisabet. Tiếng kêu này có lẽ vang cả núi rừng thành Giuđa. Qua cách diễn tả này, Luca cho thấy sự phấn khích cực độ trong lòng thai phụ già nua tuổi tác được tác động bởi hài nhi trong bụng và đầy Thánh Thần. Động từ “kêu lớn tiếng” (anephonesen) của bà chỉ được dùng để chỉ những tiếng tung hô trong phụng vụ (1Sbn 16,4-5.42) và đặc biệt cuộc di chuyển Hòm Bia (1 Sbn 15, 28; 2 Sbn 5, 13)”[10]. Vì thế, bà Elisabet như đang ở trong một bối cảnh Phụng Vụ đón tiếp Đức Maria và Con Thiên Chúa.
9. Được chúc phúc: Câu nói này mang âm hưởng của ân sủng của “Pnêuma thánh”. Pnêuma thánh đã làm cho bà la lớn và Người cũng cho bà nhìn thấy phúc lành nơi Đức Maria. Bà Elisabet nhìn nhận vị trí ưu việt của người em họ giữa những người phụ nữ. Chính trong vai trò làm mẹ, Đức Maria sẽ đóng góp vào công trình cứu độ cho dân mình[11]. Đức Maria được chúc phúc qua ơn gọi làm mẹ. Hay nói cách khác, Đức Maria được chúc phúc nhờ mang thai Con Thiên Chúa. Đức Giêsu được chúc phúc và Đức Maria được hưởng nhờ sự chúc phúc từ Đức Giêsu. L. Johnson gọi khả năng nhận biết phúc lành của Đức Maria và hài nhi Giêsu là “sự nhận biết sâu sắc mang tính ngôn sứ”. Không cần ai nói, Elisabet dường như tỏ tường mọi sự về vai trò của người em họ và sự cao cả vượt trổi của hài nhi Giêsu so với Gioan[12]. Trong lời cầu nguyện truyền thống của Hội Thánh (Kinh Kính Mừng), lời của bà Elisabet được kết hợp hoàn hảo với lời của sứ thần Gabriel để làm thành phần ca tụng của Kinh này: “Kính Mừng Maria, đầy ơn phúc [đầy ân sủng], Đức Chúa Trời ở cùng Bà (lời của sứ thần Gabriel, Lc 1, 28); Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng bà cùng phúc lạ” (lời của bà Elisabet, Lc 1, 42).
10. Mẹ của Chúa của tôi: Lời tuyên xưng này vẫn nằm trong sự tác động của “Pnêuma thánh”. Đức Maria không còn là người chị em họ hàng nữa mà là “Thân Mẫu của Đức Chúa”. Bà Elisabet kính trọng Đức Chúa bao nhiêu thì cũng quý trọng “Thân Mẫu” của Đức Chúa bấy nhiêu. Kiểu nói: “Từ đâu chuyện này xảy ra cho tôi rằng Thân Mẫu Chúa tôi đến cùng tôi” cho thấy bà Elisabet cũng cảm thấy mình có phúc, được vinh dự đón tiếp người em họ trong địa vị Mẹ của Đức Chúa. Gặp gỡ Đức Maria là gặp gỡ chính Chúa. Đức Maria đến viếng thăm cũng là Đức Chúa đến thăm. Theo lời của bà Elisabet, dấu hiệu để cho bà nhận ra người em họ Maria là “Thân Mẫu Chúa tôi” là phản ứng của bé Gioan. Mệnh đề bắt đầu bằng liên từ chỉ lý do, cùng với thán từ biểu tỏ “vì kìa” (ἰδοὺ γὰρ) đi ngay sau mệnh đề “bởi đâu chuyện xảy ra cho tôi rằng Thân Mẫu Chúa tôi đến cùng tôi”, để giải thích lý do cho mệnh đề này. Bé Gioan nhảy mừng cách bất thường báo hiệu rằng Đức Maria đang mang trong mình “Con Thiên Chúa” và bà Elisabet đã nhận ra điều này ngay lập tức.
11. Phúc thay: Tính từ “μακαρία” (phúc thay) trong tiếng Hy Lạp thường được dùng để bắt đầu cách “Mối Phúc” như trong Mt 5,3-12 và Lc 6,20-23 (Phúc cho anh em là những người nghèo, vì Nước Thiên Chúa là của anh em…). J. Fitzmyer cho rằng khi dùng tính từ này cho Đức Maria ở đây Luca đã giới thiệu mối phúc thứ nhất trong Tin Mừng của ông[13]. Các “Mối Phúc” này được Đức Giêsu công bố và nó thường có hai phần: “Phúc… + vì…”. Mệnh đề vì trong mối phúc dành cho Đức Maria nằm ở chỗ vì cô “đã tin rằng lời Chúa đã nói sẽ hoàn tất”. Tính từ “phúc thay” (μακαρία) sau này lại được một “người phụ nữ trong đám đông” dùng để tôn vinh Mẹ của Đức Giêsu: “Phúc thay dạ đã cưu mang ngài và vú đã cho ngài bú” (Lc 11, 27). Qua lời giải thích của Đức Giêsu, độc giả hiểu thêm “tốt hơn nên nói là phúc cho những người đã lắng nghe và giữ lời của Thiên Chúa” (Lc 11, 28). Đức Maria đã có phúc vì đã tin, nghe, và giữ lời của Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, chúng ta cũng gặp thấy hình ảnh bà Lêa nói rằng “bà có phúc vì những người phụ nữ xem bà là có phúc” (St 30, 13). Đức Maria được người chị họ khen là “có phúc” và sau này Đức Maria cảm nghiệm trong lời kinh Magnificat rằng “muôn thế hệ” cũng nhìn nhận cô là người có phúc (1, 48).
12. Người đã tin: Đức tin của Đức Maria, ngược lại với sự “không tin” của ông Dacaria vào những lời sẽ được hoàn tất đúng lúc, và ông đã bị câm (1, 20). Theo cấu trúc việc Đức Maria được tuyên xưng “là người được chúc phúc trong các người phụ nữ” song song với “mối phúc” dành có thể là toàn bộ lời mà sứ thần Gabriel đã nói cùng Đức Maria trong buổi truyền tin: “Maria đầy ơn phúc… Đức Chúa ở cùng cô… Cô sẽ mang thai sinh hạ một con trai…Người sẽ nên cao cả và được gọi là Con Đấng Tối Cao…”. Đức Maria đã tin tất cả những lời sứ thần nói và đã cầu xin trong sự khiêm hạ: “Này tôi là nữ tỳ của Đức Chúa, xin hãy xảy ra cho tôi theo như lời sứ thần nói”. Đức Maria đã đáp trả một cách tích cực rộng rãi cho lời mời của sứ thần. Cô đã đón mời mầu nhiệm và tín thác hoàn toàn cho chương trình của Thiên Chúa, vì ý thức rằng mình chỉ là “nữ tỳ” của Chúa. Tất cả những lời sứ thần nói đã xảy ra, và giờ đây Đức Maria đang mang thai Con Thiên Chúa. Được làm Thân Mẫu của Con Chúa là điều mà bao phụ nữ hằng mơ ước.
Bình luận tổng quát
Có thể nói rằng sau khi Đức Maria nhận lời truyền tin của sứ thần cuộc đời của Mẹ đã thực sự thay đổi. Từ một con người an phận trong đời sống hôn nhân, một người đã đính hôn đang chờ thời khắc vui mừng được rước về nhà chồng, Mẹ đã trỗi dậy và khởi hành lên miền sơn cước. Đó là một hành trình đến với người chị họ để chia sẻ, đỡ nâng gánh nặng tự nhiên của một người chị mang thai lúc tuổi già. Quan trọng và đặc biệt hơn, Mẹ đến là để chia sẻ niềm vui trọng đại của sứ vụ làm Mẹ Con Chúa. Chúa đã ngự vào trong lòng Mẹ. Niềm vui ấy quá lớn, quá trọng đại đến nỗi không thể nào diễn tả được và không thể nào không chia sẻ với người khác. Quả thế, niềm vui ấy làm cho Mẹ đi đến đâu cũng làm cho bầu khí nơi đó ngập tràn niềm vui, và ai gặp Mẹ cũng đều cảm thấy vui mừng khôn tả. Lời chào đơn sơ của Mẹ giờ đây đụng chạm và đánh động cả bé Gioan trong lòng người chị họ. Bé đã nhảy lên vui sướng. Người chị họ Elisabet đầy Thánh Linh phải thốt lên những lời từ đáy lòng về phúc lành mà Thiên Chúa dành cho người em họ. Đức Maria từ địa vị người em gái họ, bỗng chốc được vinh danh là Thân Mẫu của Thiên Chúa. Bà Elisabet sung sướng, hãnh diện, ca ngợi phúc lành của Chúa dành cho người em họ: “Em thật có phúc và người Con trong lòng em cũng được chúc phúc”. Qua đó, bà cũng nhận ra phúc lành Thiên Chúa dành cho chính mình, vì bà cảm nghiệm được niềm vui được Thân Mẫu Chúa đến viếng thăm: “Bởi đâu, từ đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này”. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và người chị họ, giờ đây không còn là một cuộc gặp gỡ bình thường của hai thai phụ, nhưng là cuộc gặp gỡ giữa hai người tin, nhìn thấy và cảm nhận sâu sắc sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa trên cuộc đời mình. Những chuyện họ nói không còn là những chuyện hàn huyên giữa hai người phụ nữ nữa, nhưng là những lời cao vời ca tụng Thiên Chúa. Bầu khí cuộc gặp gỡ đã trở thành bầu khí phụng vụ, phụng thờ Thiên Chúa nơi cung lòng của Đức Maria. Ngôi nhà nhỏ bé của tư tế Dacarias trong khoảnh khắc ấy trở thành ngôi thánh đường tôn kính Thiên Chúa quyền năng cao cả.
Mỗi người kitô hữu là đền thờ của Thiên Chúa. Thiên Chúa ngự trị trong cung lòng, trong trái tim của họ. Họ được mời gọi cảm nghiệm được niềm vui Thiên Chúa nhập thể trong lòng mình. Một khi cảm nghiệm được niềm vui ấy, họ không thể không “trỗi dậy”. Họ không thể giữ nguyên nếp sống cũ, của con người cũ. Họ phải gieo bước hành trình với ao ước đem tin vui, tin lành tình yêu của Thiên Chúa nhập thể cho người khác. Phải làm sao để những nơi họ đến đều có bầu khí vui mừng, những người gặp họ đều thấy bình an. Hãy để Chúa định hướng mọi cuộc gặp gỡ hằng ngày và để Chúa lên tiếng trong mọi cuộc đối thoại, mỗi câu chuyện thường ngày. Có như thế, mọi cuộc gặp gỡ bình thường mỗi ngày mới có thể mang lại niềm vui phi thường, bất tận.
Đời người trải qua biết bao nhiêu cuộc gặp gỡ. Có những cuộc gặp gỡ vô bổ, với những câu chuyện tầm thường rỗng tuếch. Có những cuộc gặp gỡ chỉ mang lại cho người ta niềm đau, nỗi buồn và sự xa cách vì những câu nói đầy ác ý của đôi bên. Lại có những cuộc gặp gỡ đầy toan tính, mưu mô, lợi lộc, để rồi sau những cuộc gặp gỡ ấy sẽ có kẻ được người mất, kẻ vui mừng, người thất vọng. Cũng có những cuộc gặp gỡ chỉ nhằm vào mục đích xã giao vì những phi vụ kinh tế, và lợi ích chính trị, và cả tôn giáo. Ước gì, trên thế gian này ngày càng có thêm nhiều nữa những cuộc gặp gỡ chỉ nhằm mục đích tăng thêm tình thương, tình người. Đò là những cuộc gặp gỡ mà nơi đó lời chào bình an được khởi đầu và niềm vui vỡ òa là hoa trái kéo dài mãi trong tương quan giữa người với người.
---Hết---
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
Nguồn: https://josephpham-horizon.blogspot.com/2021/12/niem-vui-chia-se-niem-vui-ay-chu-giai.html (cập nhật ngày 19/12/2024)
----------------------------------------------------------------------------------------
[8] Cần lưu ý là bản văn khi được soạn thảo bằng tiếng Hy Lạp, không được phân chia thành chương và câu như bây giờ. Việc phân chia câu của bản văn chỉ được làm vào năm 1551 bởi Robert Estienne. Lm. Stephan Langton là người phân chia sách Tân Ước thành chương vào năm 1226. Những sự phân chia này đôi khi chỉ mang tính tương đối.
[9] J.B. Green, The Gospel of Luke, 96.
[10] J.P.D.Thạch, “Đức GIêsu, Trung Tâm của Mọi Cuộc Gặp Gỡ” [LỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI (ῥήματα ζωῆς αἰωνίου): ĐỨC GIÊSU, TRUNG TÂM CỦA MỌI CUỘC GẶP GỠ (josephpham-horizon.blogspot.com)] (truy cập 13/08/2021).
[11] J.B. Green, The Gospel of Luke, 96.
[12] L.T. Johnson, The Gospel of Luke, 41.
[13] J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke I–IX. Introduction, translation, and notes, 365.