NIỀM VUI CHIA SẺ NIỀM VUI ĐẦY.
Chú Giải Tin Mừng Chúa Nhật IV MV C
(Lc 1,39-45.56)
Bản văn và bản dịch sát nghĩa
Hy Lạp | Việt |
39 Ἀναστᾶσα δὲ Μαριὰμ ἐν ταῖς ἡμέραις ταύταις ἐπορεύθη εἰς τὴν ὀρεινὴν μετὰ σπουδῆς εἰς πόλιν Ἰούδα,
40 καὶ εἰσῆλθεν εἰς τὸν οἶκον Ζαχαρίου καὶ ἠσπάσατο τὴν Ἐλισάβετ.
41 καὶ ἐγένετο ὡς ἤκουσεν τὸν ἀσπασμὸν τῆς Μαρίας ἡ Ἐλισάβετ, ἐσκίρτησεν τὸ βρέφος ἐν τῇ κοιλίᾳ αὐτῆς, καὶ ἐπλήσθη πνεύματος ἁγίου ἡ Ἐλισάβετ,
42 καὶ ἀνεφώνησεν κραυγῇ μεγάλῃ καὶ εἶπεν· εὐλογημένη σὺ ἐν γυναιξὶν καὶ εὐλογημένος ὁ καρπὸς τῆς κοιλίας σου.
43 καὶ πόθεν μοι τοῦτο ἵνα ἔλθῃ ἡ μήτηρ τοῦ κυρίου μου πρὸς ἐμέ;
44 ἰδοὺ γὰρ ὡς ἐγένετο ἡ φωνὴ τοῦ ἀσπασμοῦ σου εἰς τὰ ὦτά μου, ἐσκίρτησεν ἐν ἀγαλλιάσει τὸ βρέφος ἐν τῇ κοιλίᾳ μου.
45 καὶ μακαρία ἡ πιστεύσασα ὅτι ἔσται τελείωσις τοῖς λελαλημένοις αὐτῇ παρὰ κυρίου.
(Lk. 1:39-45 BGT) | 39 Trong những ngày ấy sau khi trỗi dậy, Maria khởi hành vào miền đồi núi với sự hối hả vào một thành của Giuđas.
40 và cô đã đi vào nhà của ông Dacarias và chào bà Elisabet.
41 chuyện xảy ra là khi bà Elisabet nghe lời chào của cô Maria, đứa bé trong bụng nhảy lên vui sướng và bà Elisabet được đầy Thánh Linh.
42 và kêu lên một tiếng kêu lớn và nói em đã được chúc phúc trong những người phụ nữ và hài nhi của lòng em cũng được chúc phúc.
43 Từ đâu điều này xảy ra cho tôi để mà mẹ của Chúa của tôi có thể đến với tôi?
44 bởi vì, kìa! Khi tiếng chào của em đi vào tai tôi, đứa bé trong bụng tôi nhảy lên với niềm vui khôn tả.
45 Phúc cho người đã tin rằng những lời Chúa đã nói cùng cô ấy trở nên hoàn tất. |
Bối cảnh
Đây là một trong những bản văn độc quyền của tác giả Luca trong loạt những trình thuật về Giáng Sinh và Thời Thơ Ấu của Đức Giêsu. Không ai trong số các tác giả sách Tin Mừng ghi lại sự kiện này (cuộc thăm viếng dành cho người chị họ). Lc 1,39-45 được nối liền sau đoạn văn nói về sự kiện Đức Maria đón nhận sứ mạng trong đại của Chúa qua lời sứ thần Gabriel, thường được gọi là trình thuật “truyền tin” (1,26-38). Hai đoạn này nối kết với nhau một cách chặt chẽ bởi hai nhân vật: Đức Maria và người chi họ Elisabet. Trong đoạn trước, bà Elisabet đã được nhắc đến hai lần liên quan đến sự việc bà mang thai. Thứ nhất bà được nhắc đến là “có thai được sáu tháng” (1, 26). Lần thứ hai, sứ thần nhắc lại việc bà đã mang thai cách lạ lùng để làm bằng chứng cho sự phân vân của Đức Maria. Trong lần này, sứ thần cho biết bà là người họ hàng với Đức Maria, và “tuy già rồi mà cũng đang cưu mang một người con trai” (1, 36). Trong đoạn này, bà Elisabet là chủ nhà tiếp đón Đức Maria là khách. Hơn hết, Lc 1,39-45 nối kết với 1,26-38 bằng mầu nhiệm Thiên Chúa trên hai người phụ nữ có mối liên hệ huyết tộc: Trong khi người chị (Elisabet) cưu mang “ngôn sứ của Đấng Tối Cao” (Lc 1, 76) thì cung lòng của người em (Đức Maria) là nơi cho Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể. Mầu nhiệm ấy được tỏ hiện trong cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và người chị họ. Lc 1,39-45 cũng nối kết với nhân vật Dacarias. Ông cũng là người đã nhận được truyền tin như Đức Maria và hiện thời đang bị “câm” vì liên quan đến việc ông đã không tin vào lời sứ thần nói (x. Lc 1, 20). Ngoài ra, chủ đề Đức Maria đến với bà Elisabet nằm trong bối cảnh chung của sự kiện trọng đại của Tin Mừng Luca nói riêng và Tin Mừng Nhất Lãm nói chung: “Thiên Chúa đến viếng thăm dân Người” (Lc 7, 16). Hơn nữa, chi tiết Đức Maria được gọi là “người đã tin vào những lời từ Chúa” (1, 45), cho thấy mẹ là người đầu tiên, là mẫu gương và là cội nguồn đức tin của các môn đệ và các tin hữu sau này.
Cấu trúc
Tổng Quát
| Bối cảnh: Nhân vật, thời gian và nơi chốn (39-40)
(A) Hài Nhi nhảy lên vui mừng – được đầy Thánh Thần (1,41)
(B) Được chúc phúc: Maria – Đứa Bé – Elisabet (1,42-43)
(A’) Hài nhi trong bụng nhảy lên trong niềm vui sướng (1,44)
(B’) Phúc cho người đã tin vào sự hoàn tất của lời Chúa nói (1,45)
Kết: Cô Maria ở lại với bà Elisabet chừng ba tháng rồi cô trở về nhà mình (56) |
Chi tiết
| Bối cảnh: Nhân vật, thời gian và nơi chốn (39-40) Bà Elisabet nghe lời chào (41a) Đứa bé nhảy lên vui sướng (41b) Bà Elisabet được đầy Thánh Linh và thốt lên (41c-42a) Phúc của Đức Maria (42b) Phúc của hài nhi (42c) Bà Elisabet tự vấn: Từ đâu Mẹ của Chúa đến thăm? Vì khi Bà Elisabet nghe tiếng chào (44a) đứa bé nhảy lên với niềm vui khôn tả (44b) Phúc của người đã tin vào sự hoàn tất của lời Chúa (45) Kết: Cô Maria ở lại với bà Elisabet chừng ba tháng rồi cô trở về nhà mình (56)
|
Một số điểm chú giải[1]
1. Sau khi trỗi dậy (Αναστᾶσα): Động từ “ἀνίστημι” (anistemi) trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là đứng dậy. Trong bối cảnh này, nó đi kèm với động từ “khởi hành”: Sau khi Maria đứng dậy, cô khởi hành xem ra hơi thừa thãi, vì khởi hành thì giả định rằng phải “đứng dậy” mới “khởi hành” được và chỉ cần nói “khởi hành” thôi là đã đủ. Có điều gì đặc biệt nơi động từ này trong bối cảnh này? “đứng dậy”, (hay trỗi dậy) thể hiện sự thay đổi tư thế, vị trí ngồi ổn định. Trước đó, Đức Maria có lẽ đang yên vị trong vị trí một người vợ đã đính hôn với Giuse và đang chờ thời gian để được đón dâu về nhà chồng. Cô không nghĩ đến một kế hoạch nào ít nhất trong khoảng thời gian này. Tuy nhiên, sau khi nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, và nghe biết người chị họ đang mang thai trong lúc tuổi già đã sáu tháng nay, Đức Maria liền trỗi dậy. Cô đã quyết định ra khỏi sự ổn định, đợi chờ ngày rước dâu, để khởi hành về miền sơn cước. Đó là một hành trình dài nhưng rất cấp thiết trong lúc này. Hơn nữa, động từ này cũng chính là động từ mà cả ba tác giả Tin Mừng Nhất Lãm, đặc biệt là Luca và Máccô dùng để diễn tả sự sống lại của Đức Giêsu (Mt 20, 19; Mc 8, 31; 9,9.31; 10, 34; Lc 18, 33; 24,7.46). Nó có thể diễn tả một sự sống mới, một con người mới nơi Đức Maria, một hành trình mới, hành trình mang Chúa đến cho nhân loại. Ngôi nhà của người chi họ Elisabet là chặng đầu tiên trong hành trình ấy. Đây cũng chính là động từ tác giả Luca dùng để diễn tả hành động dứt khoát diễn tả bước ngoặt thay đổi cuộc đời của chàng thu thuế Lêvi: “Ông bỏ tất cả mọi sự, trỗi dậy (ἀναστὰς) và theo Đức Giêsu” (Lc 5, 28). Đức Maria mang Đức Giêsu trong mình thế nhưng lối sống của Đức Maria giờ đây rập theo lối sống Đức Giêsu như là một môn đệ đầu tiên của Người.
2. Maria khởi hành với sự hối hả: Tin Mừng Luca cho biết Đức Maria sinh sống ở “một thành miền Galilê, gọi là Nadarét” (Lc 1, 26). Theo truyền thống, gia đình của ông Dacarias ở Enkarem (Dòng suối vườn nho), cách Giêrusalem 8 km về phía Tây, và cách Nadarét hơn kém 144 km. Nếu đi bộ thì phải gần 2 ngày một đêm mới đến được. Với lại, Đức Maria đang trong giai đoạn chờ đợi rước dâu về nhà chồng, đi xa như vậy quả là một vấn đề. Thật khó, để tưởng tượng Đức Maria phải vất vả thế nào với một hành trình như thế. Chỉ có một mình Luca kể cuộc hành trình này. Hành trình được xảy ra ngay sau trình thuật “truyền tin cho Đức Maria”. Qua lời sứ thần Đức Maria biết được người chị họ đang mang thai tháng thứ sáu. Hành trình này được mô tả là “với sự vội vã” (μετὰ σπουδῆς). Cụm giới từ “với sự vội vã” cũng có thể được hiểu là “với sự háo hức”[2]. “Sự vội vã” (háo hức) của Đức Maria có thể có 2 lý do. Thứ nhất, Đức Maria cần chia sẻ mầu nhiệm mang thai Con Thiên Chúa. Đức Maria vừa nhận lời truyền tin từ sứ thần Gabriel. Tâm trạng vừa mừng, vừa lo, có thể cả bối rối nữa, nên cần tâm sự, chia sẻ với người chị có tuổi và đạo hạnh. Thứ hai, bà Elisabet cần được chia sẻ. Một người phụ nữ lớn tuổi, mang thai lần đầu, có lẽ rất cần một người chị em để chăm sóc, đỡ đần trong giai đoạn khó khăn, nhất là lúc sinh nở[3]. Khoảng thời gian Đức Maria ở lại 3 tháng, vừa đúng với khoảng thời gian người chị họ sanh con. Vì thế, lý do thứ hai xem ra khá rõ ràng. Đây không phải là lần duy nhất Đức Maria hành trình Bắc-Nam như thế. Luca còn kể lại một chuyến hành trình Bắc-Nam khác của Đức Maria cùng với thánh Giuse. Đó là hành trình từ Nadarét về Bêlem để làm kiểm tra dân số. Hành trình này gian nan gấp bội, vì Đức Maria đã mang thai gần đến ngày sinh nở. Một hành trình Bắc – Nam khác cũng chứa chan nhiều lo lắng. Đó là hành trình cả gia đình Đức Maria đi lên đền thánh Giêrusalem, lúc Đức Giêsu lên mười hai tuổi. Người ở lại đền thờ làm cho cha mẹ một phen hú vía, tìm kiếm hơn 3 ngày. J. Green xem hành trình của Đức Maria ở đây có một vai trò thần học then chốt: “Chuyến khởi hành liên quan đến việc hoàn tất mục mục đích của Thiên Chúa”, giống như hành trình Đức Giêsu lên Giêrusalem, để chịu khổ nạn và chịu chết (Cf. 9, 51)[4].
3. Ông Dacarias và bà Elisabet: Tên gọi của Dacarias và Elisabet có nguồn gốc từ tiếng Do Thái. Dacarias được gọi là tên gắn với Thiên Chúa (trong tên đó có chữ Chúa, hay thần). Dacarias trong tiếng Do Thái được ghép bởi hai phần: Đức Chúa + động từ nhớ (זְכַרְיָה). (יָה) (đọc là yah) là viết tắt của tên mà Chúa đã tỏ cho ông Môsê (יְהוָ֞ה) (YHWH). Trước đây danh xưng này thường được dịch là “Giavê” (Yahweh). Bây giờ, các chuyên gia tránh không gọi là Yahweh nữa vì kỵ húy (không được gọi tên của Chúa). Vì thế, ngày nay các bản dịch Tiếng Anh thường là “the Lord”, tương đương với bản dịch Việt ngữ là “Đức Chúa”. CGKPV chọn dịch danh xưng “YHWH” là “Đức Chúa” để phân biệt với “Thiên Chúa” trong tiếng Do Thái là Êlôhim (אֱלֹהִ֑ים). Động từ zakar (זָכַר) có nghĩa là nhớ đến. Tên Dacarias nghĩa là Đức Chúa nhớ đến. Elisabet trong tiếng Do Thái là “Êlisêva” (אֱלִישֶׁ֧בַע) cũng được kết hợp bởi (אֱלִי) (Thiên Chúa của tôi) + (שֶׁ֧בַע) (sự thỏa mãn, dồi dào). Như vậy, tên Elisabet nghĩa là “Thiên Chúa của tôi là một sự dồi dào”. Dacari-as và Elisabet là hai nhân vật chỉ xuất hiện trong Tin Mừng Luca. Họ là cha, mẹ của Gioan Tẩy Giả. Ông Dacarias cũng nhận được lời sứ thần truyền tin tương tự như Đức Maria, còn bà Elisabet thì có thai một cách lạ lùng như Đức Maria. Bà mang thai lúc tuổi già mặc dù bị mang tiếng là son sẻ (Lc 1, 36). Ông Dacarias là “một tư tế thuộc nhóm Avigia, còn Elisabet cũng thuộc dòng tộc tư tế Aharon. Cả hai đều là người công chính trước mặt Chúa, sống đúng theo mọi điều răn Chúa và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì” (Lc 1,5-6).
4. Lời chào (τὸν ἀσπασμὸν): Luca không ghi lại Đức Maria đã chào như thế nào. Tuy nhiên, trong văn hóa Do Thái, người ta thường chào nhau bằng một chữ “shalom” (bình an). Đây là lời chào rất ý nghĩa. Đó chính là lời chào mà Đavít đã dặn các thuộc hạ chào ông Naban: “Bình an cho ông, bình an cho nhà của ông và bình an cho tất cả những gì ông có” (1 Sm 25, 6). Chúng ta có thể gặp thấy lời chào ấy trong sứ vụ rao giảng mà Đức Giêsu trao cho các môn đệ: “Vào bất cứ nhà nào trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này” (Lc 10, 5). Nhất là, Đức Giêsu dùng lời chào bình an rất nhiều lần với các môn đệ sau khi Người Phục Sinh (Ga 20,19.21.26). Do vậy, có thể, Đức Maria cũng đã chào người chị họ bằng lời chúc “bình an” như thường lệ. Nhưng tác dụng của lời chào này thật phi thường như sẽ thấy sau.
5. Đứa bé trong bụng (τὸ βρέφος ἐν τῇ κοιλίᾳ)… hài nhi của lòng em (ὁ καρπὸς τῆς κοιλίας): Dường như Luca cố ý dùng hai từ ngữ và cấu trúc khác nhau để diễn tả hai đứa bé khác nhau trong lòng hai người mẹ khác nhau. Xét về tuổi thai, bé Gioan chắc hẳn lớn hơn vì đã hơn sáu tháng tuổi, còn bé Giêsu mới tháng thứ nhất. Danh từ “brephos” dùng cho bé Gioan trong tiếng Hy Lạp vừa có nghĩa là đứa bé chưa sinh ra, vừa có nghĩa là đứa bé mới chào đời. Ngoài ra, danh từ này cũng được hiểu theo nghĩa bóng về những kitô hữu mới hoặc chưa trưởng thành (x. 1 Pr 2, 2). Trong bối cảnh này, nó đi kèm với ngữ giới từ chỉ nơi chốn “trong lòng” để xác định rõ đây là đứa bé chưa sinh ra. Gioan Tẩy Giả là đứa bé chưa sinh, đang nằm trong lòng bà Elisabet. Danh từ dùng để diễn tả bé Giêsu là “karpos”, trong tiếng Hy Lạp nghĩa là trái cây, hoa trái. Nó cũng có nghĩa bóng là “con cái”, “hậu duệ”. Trong bối cảnh này nó đi với một danh từ thuộc cách “của lòng” để diễn tả cụ thể đứa bé trong bụng. Một cách tự nhiên, bé Giêsu lúc ấy có thể là chưa thành hình nên dùng từ “hoa trái” có vẻ chuẩn hơn là “đứa bé”. Tuy nhiên, nói Đức Giêsu là hoa trái của lòng Đức Maria, có thể muốn nói đến Người là hậu duệ của người phụ nữ đã được báo trước trong sách Sáng Thế (bản án dành cho con rắn): “Ta sẽ đặt mối thù giữa hậu duệ của ngươi và hậu duệ của người phụ nữ. Người sẽ đạp nát đầu mi và mi sẽ cắn gói chân Người” (St 3, 15). Hơn nữa, vị thế của bé Giêsu hoàn toàn khác so với vị thế của Gioan cho nên phải dùng một từ ngữ khác cũng là chuyện dễ hiểu.
6. Nhảy lên vui sướng … nhảy lên với niềm vui khôn tả: Đức Maria có thể đã chào chúc “bình an” một cách thông thường nhưng đã mang lại niềm vui phi thường cho người chị họ. Người thuật chuyện kể rằng: “Chuyện xảy ra là khi bà Elisabet nghe lời chào của Maria, đứa bé trong bụng đã nhảy lên vui sướng” (1, 41). Chi tiết này lại được chính bà Elisabet xác nhận sau đó: “Này, khi lời chào của em đi vào tai tôi, đứa bé trong lòng tôi đã nhảy lên trong niềm hân hoan” (1, 44). Đây là chi tiết khá quan trọng, vì nó lặp lại hai lần trong một đoạn văn ngắn. Nó cho thấy một sự tác động bên trong chứ không còn là lời chào hỏi bình thường bên ngoài. Dĩ nhiên, lời chào của Đức Maria chứa đựng tấm lòng của hiền muội đã không ngại đường xa mà đến thăm người chị họ, nhưng lời chào ấy không ấm áp, nồng nàn đến nỗi làm cho đứa bé chưa chào đời “nhảy lên” biểu lộ niềm vui sướng. Điều khiến cho hài nhi Gioan phải nhảy lên vui sướng là hài nhi mà Đức Maria đang mang trong lòng. Có lẽ, Gioan tuy chưa chào đời đã kịp nhận ra sự thăm viếng của Đấng Cứu Thế, Đấng mà ông sẽ dọn đường cho trong tương lai. Bé Gioan vui sướng không phải vì lời chào của Đức Maria cho bằng vì sự hiện diện, viếng thăm của Đấng Tối Cao. L. Johnson cho rằng động từ “nhảy lên vui sướng” (ἐσκίρτησεν) phảng phất một sự nhận biết mang tính cánh chung như các Vịnh gia đã nói đến trong Cựu Ước: “Các ngọn núi đã nhảy nhót như thể những con cừu; các ngọn đồi [nhảy nhót] như thể những con chiên” (Tv 114,4.6). Như thế, Gioan được chứng tỏ như là một “ngôn sứ của Đấng Tối Cao” đã được sứ thần báo trước trong Lc 1, 15[5]. J. Fitzmyer thì xem hành động “nhảy lên vui mừng” ở đây cho thấy Gioan nhận biết mối tương quan với Đức Giêsu. Động từ “nhảy lên vui sướng” giống như động từ dùng trong St 25, 22, nơi mà hai đứa con sinh đôi của Rêbêca cũng “nhảy lên vui sướng”, báo trước những tương quan trong tương lai của chúng[6]. Sự nhảy mừng của Gioan cũng có liên hệ với việc Ítrael “nhảy lên như bê xổng chuồng” trong ngày của Đức Chúa (Ml 3, 20). Nó cũng có thể gợi nhớ đến điệu nhảy vui mừng của vua Đavid trước Hòm Bia Giao Ước[7].
---Còn tiếp---
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
Nguồn: https://josephpham-horizon.blogspot.com/2021/12/niem-vui-chia-se-niem-vui-ay-chu-giai.html (cập nhật ngày 19/12/2024)
-----------------------------------------------------------------------------------
[1] Rất nhiều điểm chú giải đã được nói trong J.P.D. Thạch, “Từ gặp Gỡ Tự Nhiên Đến Gặp Gỡ Siêu Nhiên” [LỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: TỪ GẶP GỠ TỰ NHIÊN ĐẾN GẶP GỠ SIÊU NHIÊN. Chú giải Tin Mừng Lễ Đức Mẹ Lên Trời (Lc 1,39-56) (josephpham-horizon.blogspot.com)].
[2] J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke I–IX. Introduction, translation, and notes (AYB; New Haven – London 2008) XXVIII, 362.
[3] X. M.D. Hamm, “Luke”, The Paulist Biblical Commentary (ed. R.J. Clifford et al.) (New York 2018) 1038.
[4] J.B. Green, The Gospel of Luke (NICNT; Grand Rapids 1997) 95.
[5] L.T. Johnson, The Gospel of Luke (SP 3; Collegeville 2005) 40.
[6] J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke I–IX. Introduction, translation, and notes, 363.
[7] X. M.D. Hamm, “Luke”, 1039.