Ngày tháng: 11/03/2025
Đang truy cập: 16

SẮC LỆNH VỀ CÁC GIÁO HỘI CÔNG GIÁO ĐÔNG PHƯƠNG ( kết thúc )

VIỆC PHỤNG TỰ

19.

Từ nay về sau, chỉ có Công Đồng Chung hay Toà Thánh mới có quyền thiết lập, thay đổi hay bãi bỏ các ngày lễ chung cho các Giáo Hội Đông phương. Còn các ngày lễ riêng của các Giáo Hội địa phương, thì ngoài Toà Thánh, Thượng Hội Đồng Thượng phụ hay Tổng Giáo chủ cũng có quyền nói trên, tuy nhiên, nên lưu tâm đến hoàn cảnh của toàn miền và của các Giáo Hội địa phương khác24.

20.

Trong khi chờ đợi toàn thể các Kitô hữu đồng thuận về việc mừng lễ Phục Sinh vào cùng một ngày, để thể hiện sự hợp nhất giữa các Kitô hữu sống trong cùng một miền hay một quốc gia, Thánh Công Đồng đã ủy thác cho các Thượng phụ hay Giáo Quyền Tối Cao tại địa phương việc ấn định một Chúa Nhật để mừng lễ này, sau khi tham khảo ý kiến và được những người liên hệ đồng thuận25.

21.

Về luật thời gian thánh, các tín hữu sống ngoài địa hạt hay miền thuộc Nghi chế riêng có thể hoàn toàn giữ theo kỷ luật hiện hành nơi họ đang sống. Riêng những gia đình theo nhiều Nghi chế khác nhau cũng được phép giữ luật này theo một Nghi chế mà thôi26.

22.

Các giáo sĩ và tu sĩ Đông phương sẽ theo quy định và truyền thống kỷ luật riêng để cử hành Thần vụ Ngợi khen đã được đặc biệt tôn kính trong các Giáo Hội Đông phương từ ngàn xưa27. Cả các tín hữu cũng nên noi gương cha ông để tuỳ khả năng sốt sắng tham dự các giờ Kinh Nhật Tụng.

23.

Các Thượng phụ cùng với Thượng Hội Đồng, hay Thẩm Quyền tối cao cùng với Hội đồng Thượng phụ của mỗi Giáo Hội, có quyền ấn định về ngôn ngữ được sử dụng trong Phụng vụ thánh, và các ngài cũng có quyền phê chuẩn các bản dịch sang tiếng bản xứ sau khi phúc trình lên Toà Thánh28.

 LIÊN LẠC VỚI ANH EM THUỘC CÁC GIÁO HỘI LY KHAI

24.

Các Giáo Hội Đông phương hiệp thông với Toà Thánh Rôma có trọng trách phải xúc tiến việc hợp nhất các Kitô hữu, nhất là các Kitô hữu Đông phương, dựa theo các nguyên tắc được Thánh Công Đồng này bàn tới trong sắc lệnh về “Đại kết”, đặc biệt họ phải cầu nguyện và nêu gương trong đời sống, trung thành với những truyền thống tôn giáo Đông phương cổ kính, tìm hiểu lẫn nhau cách sâu xa hơn, cộng tác và thân ái tiếp nhận nhau trong lãnh vực hoạt động cũng như nhân sự29.

25.

Các anh em ly khai Đông phương, khi trở về hợp nhất với Công Giáo nhờ tác động của ơn Chúa Thánh Thần, sẽ không buộc phải làm gì hơn ngoài việc tuyên xưng đức tin công giáo. Phần các giáo sĩ Đông phương, vì chức linh mục đã thành sự nơi họ vẫn được bảo toàn, nên khi trở về hợp nhất với Công Giáo, họ vẫn có quyền thi hành phận vụ thuộc thánh chức theo những quy định của Thẩm quyền thiết lập30.

26.

Luật Chúa cấm thông dự vào những hành vi phụng tự gây trở ngại cho việc hợp nhất của Giáo Hội, hoặc dẫn đến việc minh nhiên tán thành giáo thuyết sai lạc, hay tạo nguy cơ lạc hướng về đức tin, từ đó gây nên cớ vấp phạm hay đi đến thái độ bất hợp tác31. Quả thật, trong những vấn đề liên quan đến anh em Đông phương, kinh nghiệm mục vụ cho thấy rằng có thể và phải xét tới hoàn cảnh cá biệt của từng người, trong đó có những hoàn cảnh không phương hại đến sự hợp nhất của Giáo Hội cũng như không có gì là nguy hiểm, trái lại còn đáng được quan tâm vì sự cần thiết của ơn cứu rỗi và lợi ích thiêng liêng của các linh hồn. Chính vì thế Giáo Hội Công giáo, tuỳ theo điều kiện thời gian, nơi chốn và nhân sự, đã và vẫn đang áp dụng một phương thức hành động mềm dẻo hơn, qua việc cùng tham dự vào các bí tích cũng như các cử hành phụng tự và dùng chung những vật dụng thánh, để đem đến cho tất cả mọi người phương thế cứu rỗi và chứng tá của tình bác ái giữa các Kitô hữu. Sau khi đã cân nhắc những điều đó, Thánh Công Đồng đã thiết định nguyên lý hành động sau đây để “chúng tôi khỏi trở thành chướng ngại vật, vì những phán quyết khắt khe đối với những người cần được cứu rỗi”32 và để xúc tiến ngày càng hữu hiệu hơn sự hợp nhất với các Giáo Hội Đông phương đã ly khai khỏi chúng ta.

27.

Chiếu theo các nguyên tắc vừa nêu trên, những tín hữu Đông phương chỉ vì lòng ngay đã ly khai với Giáo Hội Công giáo, có thể lãnh nhận các bí tích Giải Tội, Thánh Thể và Xức Dầu bệnh nhân, nếu tự ý họ xin và chuẩn bị tâm hồn cách thích đáng; hơn nữa, những người công giáo, vì nhu cầu hay vì ích lợi thiêng liêng đòi hỏi, trong trường hợp do ngăn trở thể lý cũng như luân lý không thể tìm tới linh mục công giáo, cũng có thể xin lãnh những bí tích này nơi các thừa tác viên ngoài công giáo thuộc các Giáo Hội đã công nhận tính cách thành sự của những bí tích ấy33.

28.

Ngoài ra, cũng theo các nguyên tắc này, khi có lý do chính đáng, người công giáo và anh em ly khai Đông phương có thể cùng nhau thông dự vào những cuộc cử hành phụng tự, dùng chung những vật dụng thánh và nơi thánh34.

29.

Việc ấn định cách thức thông dự vào các hành vi phụng tự với anh em thuộc Giáo Hội ly khai Đông phương sẽ linh động tuỳ theo sự khôn ngoan của các vị Giáo chủ Bản Quyền địa phương, để sau khi hội ý với nhau, và nếu cần, sau khi đã tham khảo ý kiến các Giáo chủ của các Giáo Hội ly khai, các vị ấy có thể điều hành việc liên lạc giữa các Kitô hữu với những nguyên tắc và tiêu chuẩn thuận lợi và hữu hiệu hơn.

 KẾT LUẬN

30.

Thánh Công Đồng rất vui mừng vì sự cộng tác tích cực và hữu hiệu giữa các Giáo Hội Công giáo Đông phương và Tây phương, đồng thời tuyên bố rằng tất cả những chủ trương có tính cách pháp định này được nêu ra để thích ứng với những hoàn cảnh đương đại, cho tới ngày Giáo Hội Công giáo và Giáo Hội ly khai Đông phương đạt tới tình trạng hiệp thông hoàn toàn.

Trong khi chờ đợi, các Kitô hữu Đông phương cũng như Tây phương đều được tha thiết mời gọi hằng ngày hãy dâng lên Thiên Chúa những lời cầu nguyện sốt sắng và kiên trì, để mọi người được hợp nhất nhờ sự trợ giúp từ nơi Thánh Mẫu chí thánh của Thiên Chúa. Tất cả mọi người cũng hãy nguyện xin Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, tuôn tràn sức mạnh và ơn an ủi cho các Kitô hữu của bất kỳ Giáo Hội nào, những người đang đau khổ và chịu bách hại vì đã can đảm tuyên xưng danh Chúa Kitô.

Tất cả chúng ta hãy yêu thương nhau trong tình bác ái huynh đệ và hãy tôn trọng lẫn nhau35.

 

Tất cả và từng điều được ban bố trong Sắc Lệnh này đều đã được các Nghị phụ Thánh Công Đồng chấp thuận. Và, với thẩm quyền tông truyền nhận được từ Chúa Kitô, hợp nhất với các Nghị phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, quyết nghị và xác lập, và những gì đã được xác lập theo thể thức Công Đồng, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.

Rôma, tại Đền Thánh Phêrô, ngày 21 tháng 11 năm 1964
Tôi, PHAOLÔ, Giám mục Giáo Hội Công giáo
(Tiếp theo là chữ ký của các Nghị phụ)

-----------------------------------------------------------------------------------------

[24] x. T. LÊÔ CẢ, Thư Quod s„pissime, 15.4.454: “Petitionem autem”; T. NICÊPHÔRÔ CP, ch. 13; CĐ THƯỢNG PHỤ SERGIÔ, 18.9.1596, điều 17; PIÔ VI, Tông thư Assueto paterne, 8.4.1775; v.v...

[25] x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium.

[26] x. CLÊMENTÊ VIII, Huấn dụ Sanctissimus, 31.8.1595, §6: “Si ipsi gr„ci”; BỘ THÁNH VỤ, 7.6.1673, ad 1 và 3; 13.3.1727, ad 1; THÁNH BỘ TRUYỀN GIÁO, Sắc lệnh 18.8.1913, mục 33; Sắc lệnh 14.8.1914, mục 27; Sắc lệnh 27.3.1916, mục 14; THÁNH BỘ GIÁO VỤ ĐÔNG PHƯƠNG, Sắc lệnh 1.3.1929, mục 36; Sắc lệnh 4.5.1930, mục 41.

[27] x. CĐ LAOĐICÊÔ, 347-381, điều 18; CĐ MAR ISSACI CHALD₡ORUM, năm 410, điều 15; CĐ NERSES GLAIEN. ARMENORUM, năm 1166; INNÔCENTIÔ IV, Thư Sub catholic„, 6.3.1254, §8; BÊNÊĐICTÔ XIV, Tông hiến Etsi pastoralis, 26.5.1742, §7, số 5; Huấn thị Eo quamvis tempore, 4.5.1745, §42 và tiếp theo; Các CĐ riêng mới đây: Synodus Armenorum (1911), Coptorum (1898), Maronitarum (1736), Rumenorum (1872), Ruthenorum (1891), Syrorum (1888).

[28] Theo truyền thống Đông phương.

[29] Theo nội dung của các Tông sắc về Hiệp nhất các Giáo Hội Công Giáo Đông phương.

[30] Quy định của Công Đồng đối với anh em ly khai Đông phương và đối với tất cả các cấp bậc trong phẩm trật, theo luật Chúa và luật Giáo Hội.

[31] Luận thuyết này cũng có giá trị trong các Giáo Hội ly khai.

[32] T. BASILIÔ CẢ, Epistula canonica ad Amphilochium: PG 32, 669B.

[33] Những yếu tố sau đây được coi là nền tảng của sự uyển chuyển trên: 1) tính cách thành sự của các bí tích; 2) ý ngay lành và thái độ tâm hồn; 3) sự cần thiết của ơn cứu rỗi đời đời; 4) không có linh mục riêng của nghi chế; 5) không có nguy hại đáng trách và rõ ràng đưa đến lầm lạc.

[34] Đây chỉ nói về sự thông dự vào các hành vi phụng tự ngoài bí tích. Thánh Công Đồng chấp nhận sự uyển chuyển trên, dĩ nhiên vẫn phải giữ những điều luật buộc.

[35] x. Rm 12,10.

zalo
zalo