Ngày tháng: 21/12/2024
Đang truy cập: 6

SẮC LỆNH VỀ HOẠT ĐỘNG TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN (1)

PHAOLÔ GIÁM MỤC
TÔI TỚ CÁC TÔI TỚ THIÊN CHÚA
HỢP NHẤT VỚI CÁC NGHỊ PHỤ CỦA THÁNH CÔNG ĐỒNG
ĐỂ MUÔN ĐỜI GHI NHỚ

 

SẮC LỆNH
VỀ HOẠT ĐỘNG TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN

APOSTOLICAM ACTUOSITATEM
Ngày 18 tháng 11 năm 1965

 

LỜI MỞ ĐẦU

1.

Thánh Công đồng, vì muốn đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tông đồ của đoàn Dân Thiên Chúa1, ưu ái hướng về các Kitô hữu giáo dân, những người vẫn giữ một vai trò riêng biệt và vô cùng cần thiết trong sứ mệnh của Giáo Hội như từng được nhắc đến trong các văn kiện khác2. Thật vậy, vì khởi phát từ chính ơn gọi Kitô hữu, nên việc tông đồ giáo dân không bao giờ có thể thiếu vắng trong Giáo Hội. Rất nhiều nơi trong Thánh Kinh cũng cho thấy hoạt động này đã được thi hành cách tự phát và đạt nhiều kết quả trong những ngày đầu của Giáo Hội (x. Cv 11,19-21; 18,26; Rm 16,1-16; Pl 4,3).

Thời đại chúng ta đòi hỏi người giáo dân cũng phải nhiệt thành không kém, thậm chí hoàn cảnh hiện tại còn thúc bách họ phải thực thi hoạt động tông đồ ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng hơn. Dân số ngày càng gia tăng, khoa học và kỹ thuật ngày càng tiến bộ, tương quan giữa con người ngày càng chặt chẽ, những điều đó đã mở rộng đến vô tận môi trường hoạt động tông đồ, trong đó một khoảng không gian to lớn được dành riêng cho giáo dân, không những thế, bao nhiêu vấn đề mới lại nảy sinh đòi hỏi họ phải đặc biệt lưu tâm và tìm hiểu. Hoạt động tông đồ còn trở nên khẩn thiết hơn nữa khi tính độc lập của nhiều lãnh vực trong đời sống con người được khẳng định - đây cũng là điều bình thường - đôi khi kéo theo thái độ không còn quan tâm tới vấn đề đạo đức và tôn giáo, gây nhiều nguy hại cho đời sống Kitô hữu. Cũng cần nói thêm rằng, tại những miền thiếu linh mục hay khi các ngài không được tự do thi hành tác vụ, Giáo Hội khó có thể hiện diện và tác động nếu không có hoạt động của giáo dân.

Dấu chỉ của nhu cầu đa dạng và khẩn thiết này chính là hoạt động tỏ tường của Chúa Thánh Thần đang làm cho người giáo dân hôm nay càng ngày càng ý thức rõ rệt hơn về trách nhiệm của chính mình và đang thúc bách họ phục vụ Đức Kitô và Giáo Hội ở bất kỳ nơi đâu3.

Trong Sắc Lệnh này, Công Đồng muốn làm sáng tỏ bản chất, đặc điểm và tính đa dạng của hoạt động tông đồ giáo dân, nêu lên những nguyên tắc căn bản và đưa ra các hướng dẫn mục vụ để thi hành việc tông đồ ấy hiệu quả hơn. Mọi điều trong Sắc Lệnh này phải được coi như những tiêu chuẩn cho việc xét lại các khoản giáo luật liên quan đến hoạt động tông đồ giáo dân.

 

CHƯƠNG I

ƠN GỌI LÀM TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN

2.

Giáo Hội được thiết lập nhằm mở rộng vương quốc Chúa Kitô trên khắp địa cầu, để tôn vinh Thiên Chúa Cha và làm cho mọi người được tham dự vào công trình cứu độ4, để rồi nhờ họ, toàn thể vũ trụ thực sự được quy hướng về Đức Kitô. Mọi hoạt động của Nhiệm Thể hướng về mục đích này được gọi là việc tông đồ, được thực hiện bởi tất cả các chi thể của Giáo Hội với nhiều cách thức khác nhau. Quả thật, ơn gọi làm Kitô hữu tự bản chất cũng là ơn gọi làm tông đồ. Trong một cơ thể sống động, không chi thể nào hoàn toàn thụ động, nhưng cùng tham dự vào đời sống và hoạt động của toàn thân, cũng thế, trong Nhiệm Thể Chúa Kitô là Giáo Hội, “mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của mình làm cho toàn thân được lớn mạnh” (x. Ep 4,16). Hơn nữa, các chi thể của thân thể ấy được nối kết và liên hệ với nhau (x. Ep 4,16) đến độ chi thể nào không hoạt động theo chức năng của mình cho sự lớn mạnh của toàn thân, phải bị xem là vô dụng đối với Giáo Hội cũng như với chính mình.

Trong Giáo Hội có nhiều thừa tác vụ khác nhau, nhưng đều trực thuộc một sứ mệnh duy nhất. Đức Kitô đã trao phó cho các Tông đồ và những đấng kế vị các ngài nhiệm vụ giảng dạy, thánh hoá và cai quản nhân danh Người và trong quyền năng của Người. Phần các giáo dân, vì được tham dự thực sự vào chức năng tư tế, ngôn sứ và vương đế của Chúa Kitô, nên cũng góp phần thực hiện sứ mệnh của toàn thể dân Chúa trong Giáo Hội và trên trần gian5. Giáo dân thực thi các hoạt động tông đồ để rao giảng Tin Mừng và thánh hoá con người, để làm cho tinh thần Phúc Âm thấm nhuần và hoàn thiện hoá trật tự trần thế, sao cho các hoạt động của họ trong trần thế thực sự trở nên chứng từ về Đức Kitô và mang lại ơn cứu rỗi cho con người. Tính cách đặc thù của bậc giáo dân là sống giữa thế gian và giữa các công việc trần thế, họ được Thiên Chúa mời gọi để nhiệt thành thực thi việc tông đồ với tinh thần Kitô hữu như chất men thấm vào thế giới.

3.

Bởi được liên kết với Chúa Kitô là Đầu, người giáo dân có quyền và có bổn phận làm tông đồ. Khi được tháp nhập vào Nhiệm Thể Chúa Kitô nhờ bí tích Thánh Tẩy, được nên mạnh mẽ nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần qua bí tích Thêm Sức, họ được chính Chúa giao phó trách vụ tông đồ. Họ được thánh hiến để thực thi chức tư tế vương giả và làm nên đoàn dân thánh (x. 1 Pr 2,2-10), để hiến dâng lễ phẩm thiêng liêng qua mọi công việc, và để làm chứng cho Chúa Kitô khắp nơi trên trái đất. Các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, luôn chuyển thông và nuôi dưỡng nơi họ đức ái như là linh hồn của tất cả mọi hoạt động tông đồ6.

Việc tông đồ được thực thi trong niềm tin, cậy, mến do Chúa Thánh Thần tuôn đổ vào tâm hồn mọi thành viên của Giáo Hội. Hơn nữa, giới luật bác ái, điều răn lớn nhất Chúa dạy, luôn thúc bách tất cả các tín hữu hoạt động để tôn vinh Thiên Chúa, làm cho nước Ngài hiển trị và đem lại cho mọi người sự sống đời đời là nhận biết Thiên Chúa duy nhất chân thật và Đấng Ngài đã sai đến là Chúa Giêsu Kitô (x. Ga 17,3).

Vì thế, tất cả các Kitô hữu được trao cho nhiệm vụ cao cả là hoạt động để mọi người trên khắp hoàn cầu nhận biết và đón nhận sứ điệp cứu độ.

Để việc tông đồ được thực thi hữu hiệu, Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hoá dân Chúa qua thừa tác vụ và các bí tích, thông ban cho các tín hữu những ơn đặc biệt (x. 1 Cr 12,7), “phân chia cho mỗi người tuỳ theo ý Ngài muốn” (1 Cr 12,11) để “mỗi người tuỳ theo ơn đã lãnh nhận mà phục vụ kẻ khác” và trở nên “như những người khéo quản lý các ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa” (1 Pr 4,10), để xây dựng toàn thân trong đức ái (x. Ep 4,16). Từ việc đón nhận những đoàn sủng này, dù là những đoàn sủng thông thường nhất, mỗi tín hữu đều có quyền và bổn phận sử dụng những ơn đó trong Giáo Hội cũng như giữa trần gian, để mưu ích cho mọi người và xây dựng Giáo Hội trong tự do của Chúa Thánh Thần, Đấng “muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3,8), đồng thời trong sự hiệp thông với anh em của mình trong Chúa Kitô, nhất là với các chủ chăn, những người sẽ thẩm định về bản chất đích thực và về cách sử dụng chính đáng các đoàn sủng này, không phải để dập tắt Thánh Thần, nhưng để nghiệm xét mọi sự và điều nào tốt thì giữ lấy (x. 1 Ts 5,12; 19,21)7.

4.

Vì Chúa Kitô, Đấng được Chúa Cha sai đến, là nguồn mạch và căn nguyên của mọi hoạt động tông đồ trong Giáo Hội, nên kết quả của việc tông đồ giáo dân rõ ràng tuỳ thuộc vào sự kết hợp sống động của chính họ với Chúa Kitô, Đấng đã phán: “Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sinh được nhiều hoa trái, vì không có Thầy các con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Đời sống kết hợp mật thiết với Chúa Kitô trong Giáo Hội được duy trì nhờ những trợ giúp thiêng liêng dành cho tất cả các tín hữu, nhất là nhờ việc tham dự tích cực vào Phụng vụ thánh8, những phương thế này cần phải được sử dụng hữu hiệu sao cho, trong khi vẫn chu toàn tốt đẹp các nhiệm vụ trần thế trong hoàn cảnh sống thường ngày, người giáo dân không để cuộc sống bị tách rời, trái lại luôn tăng triển trong sự kết hợp với Chúa Kitô qua việc chu toàn bổn phận theo thánh ý Thiên Chúa. Đó chính là cách thế giúp người giáo dân thăng tiến trong nếp sống thánh thiện với niềm vui và lòng hăng say nhiệt thành, luôn nỗ lực để thận trọng và kiên trì vượt qua những khó khăn không thể tránh được trong cuộc đời9. Việc chăm sóc gia đình hay các công việc trần thế không thể bị đặt ra bên lề cuộc sống thiêng liêng, như lời Thánh Tông Đồ nhắn nhủ: “Tất cả mọi việc anh em làm, dù trong lời nói hay trong hành động, hãy làm nhân danh Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người để cảm tạ Thiên Chúa là Cha” (Cl 3,17).

Một nếp sống như thế đòi hỏi phải liên lỉ thực hành các nhân đức tin, cậy, mến.

Chỉ có ánh sáng đức tin và việc suy niệm Lời Chúa mới có thể giúp chúng ta nhận ra được Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc, “nơi Ngài chúng ta sống, hoạt động và hiện hữu” (Cv 17,28), đồng thời cũng giúp chúng ta tìm biết thánh ý Chúa trong mọi biến cố, nhận ra Chúa Kitô nơi mọi người dù là thân quen hay xa lạ, cũng như biết thẩm định đúng đắn về ý nghĩa đích thực và giá trị của các thực tại trần thế, trong bản chất của chúng và trong mối tương quan với cứu cánh của con người.

Những ai có được niềm tin như thế, khi tưởng niệm mầu nhiệm Thánh giá và Phục sinh của Chúa, sẽ sống trong niềm hy vọng trông chờ ngày con cái Thiên Chúa được tỏ hiện.

Trong cuộc lữ hành trần thế, được náu ẩn trong Thiên Chúa cùng với Chúa Kitô, được giải thoát khỏi ách nô lệ của cải, trong khi tìm kiếm sản nghiệp tồn tại muôn đời, họ sẽ hoàn toàn quảng đại hiến thân để mở rộng nước Chúa và đem tinh thần Kitô hữu xây dựng và hoàn thiện hoá các thực tại trần thế. Giữa những khó khăn của cuộc sống, họ tìm thấy lòng can đảm trong niềm hy vọng, vì nghĩ rằng: “Những đau khổ hiện thời chẳng thấm vào đâu so với vinh quang sắp tới sẽ được mặc khải cho chúng ta” (Rm 8,18).

Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa thúc đẩy họ thực thi điều lành cho tất cả mọi người, nhất là cho những người anh em trong đức tin (x. Gl 6,10), từ bỏ “mọi thứ gian ác, xảo trá, giả hình, ghen tương cũng như mọi lời nói xấu gièm pha” (1 Pr 2,1), và như vậy họ lôi kéo mọi người đến với Chúa Kitô. Hơn nữa tình yêu mà Chúa “tuôn đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần Người đã ban cho chúng ta” (Rm 5,5) làm cho người giáo dân có khả năng biểu lộ cách cụ thể tinh thần các mối Phúc Thật trong chính đời sống của mình. Đi theo Chúa Giêsu khó nghèo, họ không tuyệt vọng khi thiếu thốn, cũng không kiêu căng khi dư dật; noi gương Chúa Kitô khiêm hạ, họ không khao khát vinh quang hão huyền (x. Gl 5,26) nhưng chuyên chăm làm vui lòng Thiên Chúa hơn làm đẹp lòng người ta. Họ luôn sẵn sàng từ bỏ mọi sự vì Chúa Kitô (x. Lc 14,26), và chịu bách hại vì sống công chính (x. Mt 5,10), luôn nhớ lời Chúa nói: “Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16,24). Cư xử với nhau trong tình thân ái của người Kitô hữu, họ sẵn sàng giúp đỡ nhau trong mọi nhu cầu của cuộc sống.

Nền linh đạo giáo dân phải mang những nét riêng biệt tuỳ theo từng bậc sống như hôn nhân và gia đình, độc thân hay góa bụa, tuỳ theo tình trạng sức khỏe, tuỳ theo từng lãnh vực hoạt động nghề nghiệp và xã hội. Như vậy, mỗi người phải không ngừng phát triển những đức tính và tài năng thích hợp với từng hoàn cảnh sống, và biết tận dụng những ân huệ Chúa Thánh Thần ban riêng cho mỗi người.

Ngoài ra, những giáo dân, theo ơn gọi của mình, tham gia các hiệp đoàn hay tu hội được Giáo Hội nhìn nhận, phải nỗ lực trung thành sống theo đường hướng riêng biệt trong linh đạo của từng tu hội.

Họ cũng nên đánh giá cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp, quý trọng cảm thức về giá trị gia đình và về vai trò công dân, cũng như những đức tính liên quan tới đời sống xã hội và không thể thiếu trong đời sống Kitô hữu đích thực, như liêm khiết, công bình, trung thực, nhân hậu, quả cảm.

Gương mẫu hoàn hảo của đời sống thiêng liêng và đời sống tông đồ chính là Đức Trinh Nữ Rất Thánh Maria, Nữ Vương các Tông đồ, xưa Mẹ đã sống cuộc đời trần thế giống như mọi người, cũng phải vất vả lo lắng cho gia đình, nhưng vẫn luôn kết hợp mật thiết với Con mình và cộng tác vào công trình của Đấng Cứu Thế cách vô cùng độc đáo; giờ đây trên thiên quốc, “với tấm lòng hiền mẫu, Mẹ chăm sóc những đứa em của Con Mẹ, đang gặp nhiều nguy hiểm và thử thách trên đường lữ hành, cho đến khi tất cả về tới quê hương hạnh phúc”10. Mọi người hãy thành tâm tôn sùng Mẹ và phó thác cuộc sống cũng như mọi hoạt động tông đồ vào tay Mẹ.

 

CHƯƠNG II

MỤC TIÊU PHẢI ĐẠT TỚI

5.

Công trình cứu chuộc của Chúa Kitô, dù chủ yếu liên quan đến việc cứu rỗi con người, nhưng cũng bao hàm việc canh tân toàn thể trật tự trần thế. Do đó, sứ mệnh của Giáo Hội không chỉ là đem Tin Mừng và ân sủng của Chúa Kitô cho nhân loại, nhưng còn đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần và hoàn thiện hoá các thực tại trần thế. Vì thế, khi thi hành sứ mệnh này của Giáo Hội, người giáo dân hoạt động tông đồ ngay trong Giáo Hội cũng như giữa đời, trong lãnh vực thiêng liêng cũng như trong lãnh vực trần thế. Hai lãnh vực tuy khác biệt, nhưng lại nối kết với nhau trong ý định duy nhất của Thiên Chúa, thế nên Thiên Chúa muốn thu nhận toàn thể thế giới trong Chúa Kitô để làm nên một tạo vật mới, khởi sự ngay ở trần gian và hoàn tất trong ngày sau hết. Trong cả hai lãnh vực, người giáo dân, vừa là tín hữu vừa là công dân, phải luôn để mình được hướng dẫn bởi cùng một lương tâm Kitô hữu.

6.

Sứ mệnh của Giáo Hội liên quan đến ơn cứu độ con người sẽ nhận được nhờ lòng tin vào Chúa Kitô và nhờ ân sủng của Người. Như vậy, hoạt động tông đồ của Giáo Hội và của tất cả các tín hữu trước tiên nhằm loan báo sứ điệp của Chúa Kitô bằng lời nói và việc làm, đồng thời chuyển thông ân sủng của Người cho trần gian. Công việc này được thực hiện chủ yếu qua thừa tác vụ rao giảng lời Chúa và trao ban các bí tích, tuy được giao phó đặc biệt cho hàng giáo sĩ, nhưng trong đó, cả giáo dân cũng giữ một vai trò rất quan trọng để trở thành “những người cộng tác trong việc truyền bá chân lý” (3 Ga 8). Đây là lãnh vực đặc biệt trong đó hoạt động tông đồ giáo dân và tác vụ mục tử bổ túc cho nhau.

Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc tông đồ để Phúc Âm hoá và thánh hoá mọi người. Chính chứng tá của đời sống Kitô hữu và những việc lành được thực hiện với tinh thần siêu nhiên, có sức lôi kéo mọi người đến với đức tin và gặp gỡ Thiên Chúa; thật vậy, chính Chúa đã bảo: “Sự sáng các con phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy việc lành các con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời” (Mt 5,16).

Tuy nhiên việc tông đồ không chỉ giới hạn trong việc làm chứng bằng đời sống; người tông đồ đích thực còn tìm dịp loan truyền Chúa Kitô bằng lời nói, hoặc cho những người chưa tin để đưa họ đến với đức tin, hoặc cho những người đã tin để hướng dẫn, củng cố và thúc đẩy họ sống sốt sắng hơn; quả thật, “tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta” (2 Cr 5,14), hãy để lời Thánh Tông Đồ luôn vang vọng trong tâm trí tất cả chúng ta: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16)11.

Thời đại chúng ta có nhiều vấn đề mới được đặt ra, cũng như có nhiều sai lầm trầm trọng đang được phổ biến, có thể làm sụp đổ cả nền móng tôn giáo, trật tự luân lý và chính xã hội nhân loại, nên Thánh Công Đồng tha thiết khuyên nhủ giáo dân, mỗi người tuỳ theo khả năng và kiến thức giáo lý của mình, hãy theo đúng tinh thần của Giáo Hội để tích cực góp phần trong việc triển khai, bảo vệ và áp dụng xác đáng các nguyên tắc Kitô giáo vào những vấn đề của thời đại ngày nay.

7.

Chắc chắn ý định của Thiên Chúa về thế giới là muốn con người đồng tâm kiến tạo và không ngừng hoàn thiện hoá các thực tại trần thế.

Trật tự trần thế bao gồm nhiều thực tại, chẳng hạn những thiện ích của cuộc sống và gia đình, văn hoá, kinh tế, nghề nghiệp và chuyên ngành, các thể chế cộng đồng chính trị, mối bang giao quốc tế và những thực tại tương tự khác, cộng với những biến chuyển và tiến bộ trong mọi lãnh vực, tất cả những thực tại đó không chỉ là phương tiện để con người đạt đến cùng đích của mình, nhưng còn có giá trị riêng do chính Thiên Chúa đặt định, hoặc xét ngay trong chính bản chất của chúng, hoặc xét như thành phần của toàn thể trật tự trần thế: “Thiên Chúa nhìn muôn vật Ngài đã tạo thành và thấy tất cả đều rất tốt đẹp” (St 1,31). Phẩm tính tốt lành tự nhiên ấy lại được tiếp nhận thêm một giá trị đặc biệt dựa trên mối liên hệ giữa thiên nhiên và con người, vì vạn vật đã được tạo dựng để phục vụ con người. Sau cùng, Thiên Chúa đã muốn quy tập tất cả mọi thực tại, tự nhiên cũng như siêu nhiên, nên một trong Chúa Giêsu Kitô “để trong mọi sự, Người đứng hàng đầu” (Cl 1,18). Tuy nhiên, sự thiên định này không hề làm cho trật tự trần thế mất đi tính tự lập, cứu cánh riêng cũng như các định luật và phương tiện riêng, hay không còn cần thiết cho lộc phúc của con người, trái lại chính thiên ý đó giúp hoàn thiện năng lực và giá trị đồng thời nâng trật tự trần thế lên tầm mức xứng với ơn gọi toàn diện của con người nơi trần gian.

Qua dòng lịch sử, việc sử dụng các thực tại trần thế đã mắc nhiều sai sót nghiêm trọng, do ảnh hưởng của tội nguyên tổ, con người thường hiểu sai về Thiên Chúa chân thật, về bản tính con người và các nguyên tắc luân lý: từ đó, phong hoá và những định chế của loài người đã bị hư hoại, và chính con người nhiều khi cũng bị xúc phạm. Ngày nay cũng thế, một số người vì quá tin tưởng vào tiến bộ khoa học và kỹ thuật, nên dường như muốn tôn thờ các thực tại trần thế, đến nỗi trở thành nô lệ thay vì làm chủ vạn vật.

Toàn thể Giáo Hội đang nỗ lực để giúp con người có thể xây dựng tốt đẹp và quy hướng tất cả các thực tại trần thế về Thiên Chúa nhờ Chúa Kitô. Các chủ chăn có nhiệm vụ trình bày rõ ràng các nguyên tắc về cứu cánh của công trình tạo dựng cũng như về cách thức sử dụng vạn vật, đồng thời cung ứng những hỗ trợ trong lãnh vực luân lý và tu đức cho công cuộc canh tân các thực tại trần thế trong Chúa Kitô.

Giáo dân phải đảm nhận việc canh tân trật tự trần thế như là phận vụ riêng của mình, trong đó, họ được đức bác ái Kitô giáo thúc đẩy để trực tiếp và kiên quyết hành động dưới ánh sáng Tin Mừng và theo tinh thần Giáo Hội; với tư cách là công dân, họ phải cộng tác với các công dân khác tuỳ theo khả năng chuyên môn và trách vụ đang đảm nhận; ở mọi nơi và trong mọi sự, họ phải lo tìm kiếm sự công chính của nước Thiên Chúa. Phải hành động để trật tự trần thế, trong khi vẫn tuân theo các định luật riêng của mình, được canh tân sao cho phù hợp với các nguyên tắc cao quý của cuộc sống Kitô hữu, và thích ứng với những hoàn cảnh khác nhau của từng địa phương, thời đại và từng dân tộc. Việc tông đồ nổi bật hơn cả chính là hoạt động xã hội của các Kitô hữu, và Thánh Công Đồng ước ao hoạt động đó lan đến mọi lãnh vực trần thế kể cả lãnh vực văn hóa12.

8.

Đã hẳn tất cả các hoạt động tông đồ đều bắt nguồn và tiếp nhận sức mạnh từ đức ái, tuy nhiên, có một số công việc tự bản chất lại rất thích hợp để biểu hiện cách sống động tình yêu thương bác ái; chính Chúa Kitô cũng đã xem đó như là dấu chỉ biểu trưng cho sứ mệnh cứu độ của Người (x. Mt 11,4-5).

Điều răn quan trọng nhất trong lề luật là yêu mến Thiên Chúa hết tâm hồn và yêu thương tha nhân như chính mình (x. Mt 22,37-40). Chúa Kitô đã nhận giới luật yêu thương tha nhân như điều răn riêng của Người, và đưa vào đó một ý nghĩa mới phong phú hơn nhiều, khi chính Người tự đồng hoá với các anh em của Người để trở thành đối tượng của những hành vi bác ái: “mỗi lần các ngươi làm những việc đó cho một trong những người anh em hèn mọn của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Thật vậy, khi nhận lấy bản tính loài người, Chúa Kitô đã kết hợp toàn thể nhân loại thành một gia đình duy nhất bằng mối dây liên đới siêu nhiên, và đã dùng đức bác ái làm dấu chỉ của người môn đệ, khi nói: “người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35).

Trong thời sơ khai, khi đặt bữa ăn thân tình “agapè” gắn liền với bàn tiệc Thánh Thể, Giáo Hội chứng tỏ mình đang hoàn toàn hợp nhất quanh Chúa Kitô nhờ mối dây liên kết yêu thương, điều đó cho thấy, dù ở thời đại nào, Giáo Hội cũng muốn được nhận diện nhờ dấu chỉ tình yêu này, và trong khi vẫn vui mừng vì những đề xuất của người khác, Giáo Hội muốn tự đảm nhận những hoạt động bác ái như là nhiệm vụ và quyền lợi bất khả di nhượng của mình. Vì thế, Giáo Hội đặc biệt đề cao lòng thương xót đối với người nghèo đói, bệnh tật, cũng như các công việc được gọi là từ thiện và tương trợ để xoa dịu mọi nỗi thống khổ của nhân loại13.

Thời nay, nhờ những phương tiện giao thông dễ dàng và nhanh chóng, sự ngăn cách giữa con người một cách nào đó như đã được xoá bỏ, và mọi người trên khắp hoàn cầu gần như trở nên thành viên của cùng một gia đình, cho nên những hoạt động và những tổ chức bác ái càng trở nên khẩn thiết hơn và phải mang chiều kích toàn cầu. Ngày nay, hoạt động bác ái có thể và phải đáp ứng cho tất cả mọi người và mọi nhu cầu. Ở đâu có người còn thiếu thức ăn nước uống, chưa có đủ áo quần, nhà cửa, thuốc men, không có việc làm, thiếu học vấn, thiếu cả những phương tiện cần thiết để sống cho xứng với nhân phẩm, ở đâu có người đang bị hành hạ vì nghịch cảnh hay bệnh tật, đang đau khổ vì lưu đày hay tù ngục, thì ở đó bác ái Kitô giáo phải tìm gặp, ân cần săn sóc, ủi an và xoa dịu họ bằng những trợ giúp thích đáng. Những cá nhân và những quốc gia sung túc giàu mạnh phải đi tiên phong trong việc thực thi nghĩa vụ bác ái này14.

Để việc thực hành bác ái không thể bị phê phán chỉ trích và trở thành bác ái đích thực, cần phải thấy nơi tha nhân hình ảnh Thiên Chúa theo đó họ đã được dựng nên, và nhận ra Chúa Kitô, Đấng mà những gì được trao tặng cho người nghèo thật ra là được dâng lên cho chính Người. Phải hết sức tế nhị tôn trọng tự do và nhân phẩm của người được trợ giúp. Đừng làm hoen ố ý hướng ngay lành vì mưu cầu tư lợi hay vì một tham vọng thống trị nào15; phải đáp ứng những đòi hỏi công bình trước, đừng để những quà tặng bác ái thật ra chỉ là món nợ phải đền trả theo lẽ công bình; phải có kế hoạch giúp đỡ để tạo điều kiện cho những người được trợ giúp dần dần thoát khỏi tình trạng lệ thuộc người khác và có được khả năng sinh hoạt tự túc.

Vì thế người giáo dân phải mến chuộng và tận dụng khả năng để hỗ trợ các công tác từ thiện và những chương trình cứu trợ xã hội của tư nhân cũng như của quốc gia, kể cả quốc tế, nhờ đó có thể trợ giúp hữu hiệu cho các cá nhân và những dân tộc đang gặp cảnh khốn cùng, qua sự cộng tác với tất cả những người thiện chí16.

--- Còn tiếp ---

---------------------------------------------------------------

[1] x. GIOAN XXIII, Tông hiến Human„ Salutis, 25.12.1961: AAS 54 (1962), tr. 7-10.

[2] x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 33tt.: AAS 57 (1965), tr. 39tt.; Xem thêm Hiến Chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, 26-40: AAS 56 (1964), tr. 107-111; x. Sắc lệnh về các phương tiện truyền thông xã hội Inter Mirifica: ASS 56 (1964), tr. 145-153; x. Sắc lệnh về Đại kết Unitatis Redintegratio: AAS 57 (1965), tr. 90-107; x. Sắc lệnh về Nhiệm vụ mục tử của các Giám mục trong Giáo Hội Christus Dominus, 16, 17, 18; x. Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo Gravissimum Educationis, 3, 5, 7.

[3] x. PIÔ XII, Huấn từ cho các Hồng Y, 18.2.1946: AAS 38 (1946), tr. 101-102; PIÔ XII, Bài giảng cho Đoàn Thanh Lao Công, 25.8.1957: AAS 49 (1957), tr. 843.

[4] x. PIÔ XI, Thông điệp Rerum Ecclesi„: AAS (1926), tr. 65.

[5] x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 31.

[6] x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 33; xem thêm, 10.

[7] x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 12.

[8] x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, 11.

[9] x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 32; xem thêm, 40-41.

[10] x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 62; xem thêm, 65.

[11] x. PIÔ XI, Thông điệp Ubi arcano, 23.12.1922: AAS 14 (1922) tr. 659; PIÔ XII, Thông điệp Summi Pontificatus, 20.10.1939: AAS 31 (1939), tr. 442-443.

[12] x. LÊÔ XIII. Thông điệp Rerum Novarum: AAS 23 (1890-91), tr. 647; PIÔ XI, Thông điệp Quadragesimo Anno: AAS 23 (1931), tr. 190; PIÔ XII, Sứ điệp truyền thanh, 1.6.1941: AAS 33 (1941), tr. 207.

[13] x. GIOAN XXIII, Thông điệp Mater et Magistra: AAS 53 (1961), tr. 402.

[14] x. GIOAN XXIII, Thông điệp Mater et Magistra: AAS 53 (1961), tr. 440-441.

[15] x. GIOAN XXIII, Thông điệp Mater et Magistra: AAS 53 (1961), tr. 442-443.

[16] x. PIÔ XII, Huấn từ cho Hội Pax Romana M.I.I.C, 25.4.1957: AAS 49 (1957), tr. 298-299. Và nhất là GIOAN XXIII, Diễn văn tại Hội nghị “Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp” Liên Hợp Quốc (F.A.O.), 10.11.1959: AAS 51 (1959), tr. 856, 866.

zalo
zalo