PHAOLÔ GIÁM MỤC
TÔI TỚ CÁC TÔI TỚ THIÊN CHÚA
HỢP NHẤT VỚI CÁC NGHỊ PHỤ CỦA THÁNH CÔNG ĐỒNG
ĐỂ MUÔN ĐỜI GHI NHỚ
SẮC LỆNH
VỀ TÁC VỤ VÀ ĐỜI SỐNG CÁC LINH MỤC
PRESBYTERORUM ORDINIS
Ngày 7 tháng 12 năm 1965
LỜI MỞ ĐẦU
1.
Chức linh mục trong Giáo Hội vô cùng cao trọng, đó là điều Thánh Công Đồng này đã nhiều lần nhắc nhở cho mọi người1. Trong công cuộc canh tân Giáo Hội, hàng Linh mục giữ một vai trò rất quan trọng và càng ngày càng thêm khó khăn, vì thế, thật hữu ích khi luận bàn cách rộng rãi và sâu sắc hơn về các linh mục. Những điều nói đây được áp dụng cho tất cả các linh mục, nhất là những vị hiện đang coi sóc các linh hồn, và tuỳ nghi ứng hợp những điều liên quan đến các linh mục dòng. Quả thật, do chức thánh và sứ mệnh lãnh nhận từ các Giám mục, các linh mục được đặc cử để phụng sự Đức Kitô, là Thầy, là Tư Tế và là Vua, tham dự vào tác vụ của Người để xây dựng Giáo Hội ở trần gian thành Dân Thiên Chúa, nên Thân Thể Đức Kitô và Đền thờ Chúa Thánh Thần. Vì thế, để nâng đỡ các linh mục cách hữu hiệu hơn trong tác vụ và hỗ trợ nhiều hơn nữa cho đời sống các ngài giữa những chuyển biến sâu rộng và mau lẹ trong môi trường mục vụ cũng như trong điều kiện nhân sinh, Thánh Công Đồng tuyên bố và xác quyết những điều sau đây.
CHƯƠNG I
LINH MỤC TRONG SỨ MỆNH CỦA GIÁO HỘI
2.
Chúa Giêsu, “Đấng được Chúa Cha thánh hoá và sai đến trần gian” (Ga 10,36), đã cho tất cả Nhiệm Thể của Người được thông phần vào việc xức dầu mà Người đã lãnh nhận từ Chúa Thánh Thần2: thật vậy, trong Người, tất cả các tín hữu được đặt vào hàng tư tế thánh thiện và vương giả, hiến dâng lên Thiên Chúa những lễ tế thiêng liêng nhờ Đức Kitô, và tuyên xưng quyền năng của Đấng đã gọi họ ra khỏi tối tăm bước vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền3. Vì thế, không có chi thể nào không thông phần vào sứ mệnh của toàn thân, trái lại mỗi chi thể đều phải tôn vinh Chúa Giêsu trong tâm hồn4 và làm chứng về Người với tinh thần ngôn sứ5.
Tuy nhiên, để liên kết các tín hữu thành một thân thể duy nhất, trong đó “không phải tất cả các chi thể có đều có cùng một chức năng” (Rm 12,4), chính Chúa đã thiết đặt một số thừa tác viên, những người nhờ chức thánh được trao quyền tế lễ và tha tội6 trong cộng đoàn tín hữu, và nhân danh Đức Kitô chính thức thi hành tác vụ linh mục vì mọi người. Bởi thế, sau khi đã sai các Tông đồ như chính Người đã được Chúa Cha sai đến7, Đức Kitô, qua các Tông đồ, đã cho những người kế vị các ngài là các Giám mục8 cũng được thánh hiến và tham dự vào sứ mệnh của Người, sau đó, thừa tác vụ của các Giám mục lại được trao ban cho các linh mục ở cấp độ thuộc quyền9, để khi gia nhập hàng linh mục, các ngài trở thành những cộng sự viên của hàng Giám mục10 cùng nhau chu toàn tốt đẹp sứ mệnh tông đồ đã được Đức Kitô ủy thác.
Trách vụ linh mục, trong sự liên kết với chức Giám mục, thông dự vào quyền bính của chính Đức Kitô để kiến tạo, thánh hoá và cai quản Thân Thể Người. Vì thế, thánh chức linh mục, tuy lãnh nhận sau các bí tích khai tâm Kitô giáo, nhưng lại được trao ban qua một bí tích đặc biệt, ghi khắc một ấn tích đặc thù nơi các linh mục nhờ việc xức dầu của Chúa Thánh Thần, và như thế, các ngài nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô Linh mục, đến nỗi có quyền hành động với tư cách là hiện thân của Đức Kitô là Đầu11.
Khi tham dự vào phận vụ của các Tông đồ, các linh mục được Thiên Chúa trao ban ân sủng để trở nên thừa tác viên của Đức Giêsu Kitô giữa muôn dân, và thi hành thánh vụ rao giảng Tin Mừng, để dân ngoại nên hiến lễ được thánh hoá trong Chúa Thánh Thần và được chấp nhận12. Thật vậy, đoàn Dân Thiên Chúa đã được triệu tập và quy tụ nhờ lời loan báo Tin Mừng của các Tông đồ, để khi được Chúa Thánh Thần thánh hoá, tất cả những ai thuộc về dân này sẽ tự hiến làm “lễ vật sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1). Chính qua thừa tác vụ của các linh mục, lễ tế thiêng liêng của các tín hữu được hoàn tất nhờ kết hợp với hy tế của Chúa Kitô, Đấng Trung Gian duy nhất, hy tế được hiến dâng cách bí tích và không đổ máu trong mầu nhiệm Thánh Thể, được cử hành nhờ tay các linh mục, nhân danh Giáo Hội, cho tới khi Chúa lại đến13. Tác vụ linh mục hướng đến việc dâng lễ tế và được thành toàn trong chính hiến lễ ấy. Thật vậy, bắt đầu từ việc rao giảng Tin Mừng, tác vụ của các ngài đón nhận sức mạnh và năng lực từ Hy Tế của Chúa Kitô, và hướng đến mục tiêu “làm cho toàn thể thành đô đã được cứu chuộc, nghĩa là công hội và cộng đoàn các thánh, nên như hiến lễ của toàn thể hoàn vũ dâng lên Thiên Chúa nhờ vị Thượng Tế, Đấng đã tự hiến thân mình vì chúng ta trong cuộc Khổ nạn, để chúng ta trở nên Thân Thể của Người là Đầu vô cùng cao cả”14.
Vì thế, tác vụ và đời sống các linh mục luôn quy hướng về mục đích tôn vinh Thiên Chúa Cha trong Chúa Kitô. Thiên Chúa được tôn vinh khi con người đón nhận cách ý thức, tự do, cùng với lòng biết ơn, để rồi sẽ biểu dương trong suốt cuộc đời công trình của Thiên Chúa đã được hoàn tất nơi Đức Kitô. Như thế, khi cầu nguyện, tôn thờ cũng như khi giảng dạy, khi dâng Hy tế Thánh Thể và cử hành các bí tích cũng như khi phục vụ mọi người, các linh mục vừa làm cho vinh quang Thiên Chúa thêm hiển sáng, vừa giúp con người tăng triển trong đời sống siêu nhiên. Tất cả những điều đó bắt nguồn từ mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô, và sẽ được hoàn tất trong cuộc quang lâm vinh hiển, khi Người trao vương quyền lại cho Thiên Chúa Cha15.
3.
Được tuyển chọn giữa loài người, và được đặt làm đại diện cho con người trong những việc liên quan đến Thiên Chúa, để hiến dâng lễ vật và hy tế đền tội, các linh mục sống với người khác như với những người anh em16. Thật vậy, chính Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Người được Chúa Cha sai đến với loài người, đã ở giữa chúng ta và muốn nên giống chúng ta là anh em Người trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi17. Các thánh Tông đồ đã sống như Người, và thánh Phaolô, vị Tiến sĩ dân ngoại, “người được dành riêng để rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa” (Rm 1,1) chứng thực rằng, ngài đã trở nên tất cả cho mọi người để giúp mọi người được cứu rỗi18. Giữa lòng Dân Chúa, các tư tế của Giao Ước Mới, do ơn gọi và chức thánh, một cách nào đó cũng đã được dành riêng, không phải để tách biệt khỏi đoàn dân hoặc khỏi bất cứ một ai, nhưng để được thánh hiến hoàn toàn cho công việc Chúa trao phó19. Các ngài không thể là thừa tác viên của Đức Kitô nếu không trở nên chứng nhân và nên người ban phát một đời sống khác với đời sống trần thế này, tuy nhiên các ngài không thể phục vụ nhân loại nếu lại trở nên xa lạ với cuộc đời và những hoàn cảnh sống của nhân loại20.
Chính thừa tác vụ đặc biệt của các ngài đòi buộc các ngài không được sống rập theo đời này21; nhưng đồng thời lại đòi hỏi các ngài phải sống giữa mọi người trong thế gian này, phải như những mục tử nhân lành biết các con chiên của mình, lại phải tìm kiếm và dẫn về những con chiên chưa thuộc đàn này, để chúng được nghe tiếng Chúa Kitô và sẽ chỉ có một đàn chiên và một Chủ Chăn22. Để được thế, các ngài cần phải có nhiều đức tính vẫn đáng được xã hội loài người quý trọng như từ tâm, chân thành, dũng cảm, kiên trì, yêu chuộng công lý, hoà nhã và những đức tính khác, như thánh Phaolô Tông đồ đã khuyên nhủ: “Anh em hãy tưởng nghĩ đến tất cả những gì là chân thật, tinh tuyền, công chính, thánh thiện, khả ái, những gì là danh thơm tiếng tốt, là đức hạnh, là đáng khen” (Pl 4,8)23
--- Còn tiếp ---
--------------------------------------------------------------------------------------------
[1] CĐ VATICANÔ II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium; Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium; Sắc lệnh về Nhiệm vụ mục tử của các Giám mục Christus Dominus; Sắc lệnh về việc Đào tạo linh mục Optatam Totius.
[2] x. Mt 3,16; Lc 4,18; Cv 4,27; 10,38.
[3] x. 1 Pr 2,5 và 9.
[4] x. 1 Pr 3,15.
[5] x. Kh 19,10; CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 35.
[6] CĐ TRENTÔ, Khoá 23, ch. 1 và điều 1: DS 957 và 961 (1764 và 1771).
[7] x. Ga 20,21; CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 18.
[8] x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 28.
[9] x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 28.
[10] x. Pontificale romanum, Kinh Tiền Tụng lễ phong chức linh mục. Những lời này đã có trong Sacramentarium Veronense: xb. L.C. Mošhlberg, Roma 1956, tr. 122; trong Missale Francorum: xb. L.C. Mošhlberg, Roma 1957, tr. 9; cũng thấy trong Liber Sacramentorum Roman„ Ecclesi„: xb. L.C. Mošhlberg, Roma 1960, tr. 25; và trong Pontificale Romano-Germanicum: xb. Vogel-Elze, Città del Vaticanô 1963, vol. I, tr. 34.
[11] x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 10.
[12] x. Rm 15,16: bản Hy lạp.
[13] x. 1 Cr 11,26.
[14] T. AUGUSTINÔ, De civitate Dei, 10, 6: PL 41, 284.
[15] x. 1 Cr 15,24.
[16] x. Dt 5,1.
[17] x. Dt 2,17; 4,15.
[18] x. 1 Cr 9,19-23: bản Phổ thông.
[19] x. Cv 13,2.
[20] “Những hoàn cảnh ngoại tại mà Giáo Hội đang sống chính là động lực thúc đẩy việc hoàn thiện đời sống thiêng liêng và luân lý; vì Giáo Hội không thể ngồi yên và không quan tâm đến những đổi thay của thế giới loài người đang vây quanh Giáo Hội và đang tác động đến cách sống và điều kiện sinh hoạt của Giáo Hội bằng nhiều cách. Mọi người đều biết rằng Giáo Hội không tách biệt nhưng là sống giữa xã hội loài người, vì thế con cái Giáo Hội không những chịu ảnh hưởng mà còn thấm nhiễm nền văn hoá, tuân theo luật lệ và phong tục của xã hội ấy. Mối liên hệ mật thiết với xã hội loài người tạo cho Giáo Hội một tình trạng luôn luôn có những vấn đề phải giải quyết, những vấn đề này lại càng thêm trầm trọng trong thời đại hôm nay (...). Vị Tông đồ dân ngoại đã khuyên nhủ các Kitô hữu: “Anh em đừng mang chung một ách với những kẻ không tin. Thật vậy, sự công chính làm sao có thể thoả hiệp với sự bất chính? Ánh sáng làm sao có thể hoà nhập với bóng tối?... người tín hữu làm sao lại chung phần được với người không tin? (2 Cr 6,14-15). Vì thế, những ai lo việc giáo dục và huấn luyện trong Giáo Hội ngày nay, cần phải nhắc nhở thanh thiếu niên công giáo nhận biết địa vị cao cả của họ, đồng thời từ đó ý thức về bổn phận phải sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, như lời Đức Kitô đã cầu nguyện cho các Tông đồ: “Con không xin Cha đem họ ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian” (Ga 17,15-16). Giáo Hội đã nhận lấy lời cầu nguyện đó làm của mình. Tuy nhiên, phân biệt khỏi thế gian, như thế không có nghĩa là tách biệt khỏi thế gian, cũng không phải là dửng dưng, sợ hãi hay miệt thị thế gian. Thật vậy, khi tự phân biệt với nhân loại, Giáo Hội không chống đối, nhưng đúng hơn, vẫn liên kết với thế gian”. PHAOLÔ VI, Thông điệp Ecclesiam Suam, 6.8.1964: AAS 56 (1964), tr. 627 và 638.
[21] x. Rm 12,2.
[22] x. Ga 10,14-16.
[23] x. T. PÔLYCARPÔ, Epist. ad Philippenses, VI, 1: “Các trưởng giáo đoàn phải biết cảm thông, nhân ái với mọi người, phải dẫn đưa những người lầm lạc trở về, thăm viếng bệnh nhân, không khinh thường các quả phụ, cô nhi hay người nghèo, nhưng phải luôn lo thực thi điều thiện trước mặt Thiên Chúa và người ta, phải kiềm chế cơn nóng giận, đón nhận mọi người, không xét xử bất công, phải giữ mình khỏi tật tham lam biển lận, không vội tin chuyện xấu của người khác, cũng không quá nghiêm khắc khi luận xử, vì biết rằng tất cả chúng ta đều là những người tội lỗi”.