PHAOLÔ GIÁM MỤC
TÔI TỚ CÁC TÔI TỚ THIÊN CHÚA
HỢP NHẤT VỚI CÁC NGHỊ PHỤ CỦA THÁNH CÔNG ĐỒNG
ĐỂ MUÔN ĐỜI GHI NHỚ
SẮC LỆNH
VỀ VIỆC CANH TÂN THÍCH NGHI
ĐỜI SỐNG TU TRÌ
PERFECTAE CARITATIS
Ngày 28 tháng 10 năm 1965
1.
Kiên tâm sống Đức Ái trọn hảo qua các lời khuyên Phúc Âm, đó chính là bậc sống được đề cập đến trong Hiến chế mang tựa đề “Ánh Sáng Muôn Dân”, và Thánh Công Đồng đã nêu rõ đây là nếp sống khởi phát từ lời dạy và gương sáng của Thầy Chí Thánh, nên như dấu chỉ rạng ngời của Nước Trời. Giờ đây Thánh Công Đồng muốn bàn về đời sống và kỷ luật của các Hội dòng có tu sĩ tuyên khấn giữ đức khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục, cũng như tiên liệu những nhu cầu của các Dòng theo những đòi hỏi của thời đại ngày nay.
Ngay từ thời kỳ sơ khai của Giáo Hội, đã có những người nam cũng như nữ, muốn tự nguyện bước theo Chúa Kitô với tinh thần tự do thanh thoát, trung thành noi theo mẫu gương đời sống của Chúa qua việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm và tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa theo phương cách riêng của từng người, trong số đó, nhiều người được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, hoặc chọn nếp sống đơn vắng tĩnh mạc, hoặc lập ra những dòng tu được thẩm quyền Giáo Hội sẵn lòng đón nhận và phê chuẩn. Từ đó, bởi thánh ý Thiên Chúa, nhiều cộng đoàn tu sĩ đã được thiết lập với sự phong phú lạ lùng, đã giúp cho Giáo Hội chẳng những được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành (x. 2 Tm 3,17) và sẵn sàng chu toàn tác vụ kiến tạo Thân Thể Chúa Kitô (x. Ep 4,12), nhưng còn được điểm tô bằng những ân huệ khác nhau nơi đoàn con cái để nên như hiền thê trang điểm xinh đẹp ra mắt Đấng Lang Quân (x. Kh 21,2), và nhờ đó sự khôn ngoan thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa được tỏ hiện (x. Ep 3,10).
Giữa bao nhiêu ân huệ đa dạng ấy, tất cả những người được Thiên Chúa kêu gọi và đã tuyên khấn trung thành thực hành các lời khuyên Phúc Âm, đều muốn hiến thân cho Chúa cách đặc biệt, khi noi gương Chúa Kitô, Đấng thanh khiết và khó nghèo (x. Mt 8,20; Lc 9,58), đã cứu chuộc và thánh hoá nhân loại với thái độ vâng phục cho đến chết trên Thập giá (x. Pl 2,8). Được thúc đẩy bởi đức mến do Chúa Thánh Thần tuôn đổ vào trong tâm hồn (x. Rm 5,5), họ sống ngày càng trọn vẹn cho Chúa Kitô và Thân Thể Người là Giáo Hội (x. Cl 1,24). Bởi vậy, khi họ càng sốt sắng kết hiệp với Chúa Kitô qua việc hiến dâng trót cả cuộc đời, thì đời sống Giáo Hội càng thêm phong phú và việc tông đồ của Giáo Hội càng thêm kết quả dồi dào.
Để Giáo Hội đón nhận thêm nhiều ơn phúc lớn lao hơn nữa từ chính giá trị trổi vượt của đời thánh hiến với việc tuyên khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm, và phận vụ cần thiết của nếp sống tu trì trong hoàn cảnh hiện tại, Thánh Công Đồng quy định những điểm sau đây, chỉ liên quan đến các nguyên tắc tổng quát để thích nghi việc canh tân đời sống và kỷ luật các Hội dòng, cũng như các tu hội có đời sống chung nhưng không có lời khấn và cả các tu hội triều, trong khi vẫn bảo toàn tính cách đặc thù của mỗi tu hội. Còn các tiêu chuẩn riêng để trình bày và áp dụng thích hợp các nguyên tắc chung ấy, sẽ được những cơ quan thẩm quyền hậu Công Đồng quy định.
2.
Công cuộc canh tân thích ứng cho đời sống tu trì bao gồm cùng lúc sự liên tục trở về nguồn mạch của đời sống Kitô hữu và ơn linh hứng nguyên thủy của Hội dòng, cũng như sự thích nghi của Hội dòng với những hoàn cảnh đổi thay qua các thời đại. Phải tiến hành công cuộc canh tân dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần và sự hướng dẫn của Giáo Hội theo các nguyên tắc sau đây:
a) Tiêu chuẩn tối hậu của đời tu trì là sống theo giáo huấn của Tin Mừng trên đường bước theo Chúa Kitô, vì thế đây phải là quy luật tối thượng của tất cả các Hội dòng.
b) Mỗi Hội dòng có đặc tính và phận vụ riêng nhằm mưu ích cho Giáo Hội. Do đó, phải trung thành đón nhận và tuân giữ tinh thần cũng như ý hướng đặc biệt của các Đấng Sáng Lập, cùng với các truyền thống tốt lành đã có, vì đó là những yếu tố tạo nên di sản của mỗi Hội dòng.
c) Mọi Hội dòng đều phải tham gia vào đời sống Giáo Hội, và tuỳ theo bản chất của từng Hội dòng để đón nhận trọn vẹn cũng như nhiệt thành phát huy những sáng kiến và đề nghị của Giáo Hội trong lãnh vực Thánh Kinh, phụng vụ, tín lý, mục vụ, hiệp nhất, truyền giáo và xã hội.
d) Các Hội dòng phải thúc đẩy các tu sĩ tìm hiểu thấu đáo về hiện trạng của con người và thời thế, cũng như về các nhu cầu của Giáo Hội, để qua những nhận định khôn ngoan về hoàn cảnh của thế giới ngày nay trong ánh sáng đức tin, và với nhiệt tâm truyền giáo, họ có thể nâng đỡ con người cách hữu hiệu hơn.
e) Đời sống tu trì giúp các tu sĩ bước theo Chúa Kitô và kết hợp với Thiên Chúa qua việc tuyên khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm, do đó, phải luôn nhớ rằng, những thích nghi hoàn chỉnh với các nhu cầu hiện đại chỉ có thể tạo nên hiệu quả khi tiếp nhận được sinh khí từ việc canh tân đời sống thiêng liêng, đây là yếu tố phải luôn được quan tâm trước nhất ngay cả khi phải gia tăng các hoạt động bên ngoài.
3.
Cách thức sống, cầu nguyện và hoạt động phải thích ứng với tình trạng thể lý và tâm lý của các tu sĩ, đồng thời, ở bất cứ nơi đâu, nhất là tại các xứ truyền giáo, tuỳ theo tính cách của mỗi dòng, cũng phải thích nghi với các nhu cầu tông đồ, những đòi hỏi văn hoá cũng như hoàn cảnh xã hội và kinh tế.
Cũng cần dựa vào những tiêu chuẩn ấy để duyệt lại đường hướng điều hành các dòng.
Vì thế, phải duyệt lại hiến chương, sách chỉ dẫn, bản điều lệ, sách kinh và nghi thức cũng như các tài liệu tương tự, sao cho phù hợp với các văn kiện của Thánh Công Đồng này bằng cách bãi bỏ những quy định đã lỗi thời.
4.
Việc canh tân hữu hiệu và được thích nghi xác đáng chỉ có thể đạt được nhờ sự cộng tác của tất cả các tu sĩ trong dòng.
Tuy nhiên, việc ấn định các tiêu chuẩn và thiết lập các khoản luật về canh tân và thích nghi, cũng như việc đề ra phương thức thử nghiệm đúng mức và thận trọng, phải là nhiệm vụ của các vị có thẩm quyền, nhất là của tổng tu nghị, và khi cần, phải có sự phê chuẩn của Toà Thánh hoặc các Đấng Bản Quyền theo như giáo luật ấn định. Phần các Bề trên, phải dùng cách thức thích hợp để trao đổi và lắng nghe ý kiến của các tu sĩ trong những vấn đề liên quan đến toàn thể Hội dòng.
Đối với công cuộc canh tân thích ứng cho các đan viện nữ, có thể đón nhận nguyện vọng và ý kiến của các hội đồng liên viện, hoặc của các hội nghị được triệu tập hợp pháp.
Tuy nhiên, mọi người hãy nhớ rằng trong công cuộc canh tân, phải đặt kỳ vọng vào việc nghiêm túc tuân giữ quy luật và hiến chương hơn là vào việc đặt thêm luật mới.
5.
Tu sĩ của bất cứ Hội dòng nào cũng phải hiểu rằng, họ đáp trả lời mời gọi của Chúa chủ yếu qua việc tuyên khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm, vì thế, không những họ phải chết đi cho tội lỗi (x. Rm 6,11), nhưng còn phải từ bỏ thế gian để sống cho một mình Thiên Chúa. Thật vậy, họ muốn dâng hiến trót cả cuộc đời để phụng sự Thiên Chúa, chính hành động ấy đã làm nên cuộc thánh hiến đặc biệt, gắn liền và thể hiện cách trọn hảo ơn thánh hiến của bí tích Thánh Tẩy.
Vì sự tự hiến của các tu sĩ được chính Giáo Hội tiếp nhận, nên họ phải biết rằng mình cũng đã được liên kết với sứ mệnh phục vụ của Giáo Hội.
Việc phụng sự Thiên Chúa thúc bách và khích lệ họ thực hành các nhân đức, nhất là đức khiêm nhường và vâng phục, can đảm và khiết tịnh, nhờ đó họ tham dự vào sự tự hủy của Chúa Kitô (x. Pl 2,7-8) cũng như vào sự sống của Người trong Thần Khí (x. Rm 8,1-13).
Khi trung thành với lời tuyên khấn và từ bỏ mọi sự vì Chúa Kitô, (x. Mc 10,28), các tu sĩ chọn bước theo Người (x. Mt 19,21) như điều cần thiết duy nhất (x. Lc 10,42), bằng cách lắng nghe lời Người (x. Lc 10,39) và chuyên lo việc Chúa (x. 1 Cr 7,32).
Vì thế, tu sĩ của bất cứ Hội dòng nào, trong khi tìm kiếm duy chỉ một mình Thiên Chúa, đều phải liên kết việc chiêm niệm với nhiệt tâm truyền giáo, để nhờ chiêm niệm, họ kết hợp lòng trí với Thiên Chúa, và nhờ nhiệt tâm truyền giáo, họ tham gia công cuộc cứu thế và mở rộng Nước Chúa.
6.
Những ai khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm đều phải tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, Đấng đã yêu thương chúng ta trước (x. 1 Ga 4,10), và trong mọi hoàn cảnh, họ phải nỗ lực phát huy sự sống tiềm tàng với Chúa Kitô nơi Thiên Chúa (x. Cl 3,3), vì đó là nguồn mạch và động lực phát sinh tình yêu tha nhân nhằm cứu rỗi nhân loại và xây dựng Giáo Hội. Cũng chính tình yêu này tác động và hướng dẫn việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm.
Vì thế, tu sĩ của các Hội dòng phải kín múc và chuyên tâm vun bồi tinh thần cầu nguyện cũng như chính việc cầu nguyện, từ nơi nguồn mạch đích thực của nền tu đức Kitô giáo. Trước hết, hằng ngày, phải có quyển Thánh Kinh trong tay, đọc và suy niệm để học được “sự hiểu biết tuyệt vời về Đức Giêsu Kitô” (Pl 3,8). Hãy cử hành Phụng vụ thánh, nhất là mầu nhiệm Thánh Thể, với cả tâm hồn và miệng lưỡi như ý Giáo Hội mong muốn, và tìm thấy nơi đó nguồn mạch phong phú nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng.
Được bổ sức nơi bàn tiệc Luật Chúa và bàn thờ thánh thiêng, các tu sĩ yêu thương các chi thể khác của Chúa Kitô như anh em, kính trọng và yêu mến các vị chủ chăn với tình con thảo; họ phải sống và đồng cảm với Giáo Hội ngày càng gắn bó hơn, đồng thời dấn thân thực thi sứ mệnh của Giáo Hội.
7.
Đối với những Hội dòng hoàn toàn chuyên lo chiêm niệm, nơi đó các tu sĩ chỉ nhất tâm phụng sự một mình Thiên Chúa trong cô tịch và thinh lặng, trong chuyên chăm cầu nguyện và vui sống đời khổ hạnh, thì cho dù nhu cầu hoạt động tông đồ lúc nào cũng khẩn thiết, những Hội dòng ấy vẫn luôn giữ một địa vị cao quý trong Nhiệm Thể Chúa Kitô, trong đó, “các chi thể không có cùng một chức năng” (Rm 12,4). Thật vậy, các tu sĩ dâng lên Thiên Chúa hy lễ chúc tụng tuyệt hảo, trang điểm cho Dân Thiên Chúa bằng những hoa trái thánh thiện dồi dào, lấy gương lành lôi cuốn và làm cho đoàn dân ấy thêm lớn mạnh, nhờ những kết quả tuy dù rất âm thầm, nhưng lại thật phong phú trong sứ vụ tông đồ. Như thế, họ chính là vẻ đẹp của Giáo Hội và là dòng suối tuôn trào các ơn thiêng. Tuy nhiên, cũng phải duyệt lại nếp sống đó theo những nguyên tắc và tiêu chuẩn về việc canh tân và thích nghi như đã nói trên, trong khi vẫn tuyệt đối bảo toàn điều kiện cách biệt thế gian và những sinh hoạt đặc thù của đời chiêm niệm.
8.
Trong Giáo Hội, có rất nhiều Hội dòng dành cho giáo sĩ hoặc giáo dân đang dấn thân trong các hoạt động tông đồ khác nhau tuỳ theo ơn đã lãnh nhận: người được ơn phục vụ thì lo phục vụ, kẻ được ơn giảng dạy thì lo dạy bảo, người được ơn khuyên răn thì lo huấn dụ, người thì chân thành ban phát, người thì vui vẻ thể hiện tình thương (x. Rm 12,5-8). “Có nhiều ân sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí” (1 Cr 12,4).
Nơi những Hội dòng này, hoạt động tông đồ và từ thiện gắn liền với bản chất đời sống tu trì như một tác vụ thánh, và như công trình đặc biệt của tình bác ái, do Giáo Hội ủy thác và được thi hành nhân danh Giáo Hội. Bởi đó, toàn thể cuộc sống tu trì phải thấm nhuần tinh thần tông đồ, và toàn thể hoạt động tông đồ phải được hình thành trong tinh thần tu trì. Để đáp trả lời mời gọi bước theo và phục vụ Chúa Kitô nơi các chi thể của Người, hoạt động tông đồ của các tu sĩ phải được phát sinh từ cuộc sống kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô. Đó chính là nguồn sức thiêng làm tăng triển lòng mến Chúa yêu người.
Vì thế, các Hội dòng hãy tìm cách thích nghi luật lệ và nếp sống riêng với các đòi hỏi của việc tông đồ đang chuyên trách. Nhưng vì có nhiều dạng thức khác nhau trong việc liên kết hoạt động tông đồ với nếp sống tu trì, nên trong việc canh tân và thích nghi, cần xét đến tính cách khác biệt ấy, đồng thời cũng phải nâng đỡ đời sống phục vụ Chúa Kitô của các tu sĩ bằng những phương thế thích hợp với từng Hội dòng.
9.
Ở Đông phương cũng như Tây phương, phải trung thành duy trì và phát huy thêm mãi định chế đan tu khả kính trong tinh thần đích thực của một định chế đã đóng góp nhiều công trạng to lớn suốt bao thế kỷ cho Giáo Hội cũng như cho cộng đồng nhân loại. Các đan sĩ chủ yếu đảm trách phận vụ, tuy âm thầm nhưng thật cao quý, là phụng sự Thiên Chúa trong nội vi đan viện, hoặc hoàn toàn hiến thân lo việc phụng tự trong nếp sống ẩn dật, hoặc phụ trách cách hợp pháp một số việc tông đồ hay công trình bác ái Kitô giáo. Vì thế, trong khi vẫn duy trì tính chất riêng biệt của mỗi dòng, họ cần canh tân và thích nghi những truyền thống cổ kính tốt lành với những nhu cầu hiện nay của các linh hồn, để đan viện nên như nơi vun tưới hạt mầm tăng trưởng của đoàn dân Kitô giáo.
Cũng vậy, các dòng có quy luật hay hiến chương liên kết chặt chẽ đời tông đồ với việc hát kinh nhật tụng và những luật lệ đan viện, hãy phối kết nếp sống với các nhu cầu của những hoạt động tông đồ thích hợp, để có thể vừa trung thành giữ được lối sống của mình vừa mang lại nhiều ơn phúc cho Giáo Hội.
10.
Đời sống tu trì dành cho giáo dân, nam cũng như nữ, mang đầy đủ ý nghĩa của một bậc sống với việc khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm. Vì thế, với sự quý trọng dành cho một nếp sống đã hỗ trợ rất nhiều cho công tác mục vụ của Giáo Hội trong lãnh vực giáo dục thanh thiếu niên, săn sóc bệnh nhân và nhiều tác vụ khác, Thánh Công Đồng khích lệ các tu sĩ sống trọn ơn gọi, và kêu mời họ hãy thích nghi cuộc sống với những đòi hỏi của thời hiện đại.
Thánh Công Đồng tuyên bố không có gì trở ngại trong việc lãnh nhận chức thánh của một số tu sĩ thuộc các tu hội dành cho các sư huynh, để đáp ứng những nhu cầu cần đến tác vụ linh mục trong các tu sở, tuỳ theo Tổng Tu Nghị quyết định, nhưng vẫn phải duy trì tính chất giáo dân của tu hội.
11.
Những tu hội tại thế, tuy không phải là dòng tu, nhưng cũng có lời khấn thật sự và trọn vẹn được Giáo Hội công nhận để giữ các lời khuyên Phúc Âm giữa cảnh đời thường. Lời khấn ấy thánh hiến các hội viên nam cũng như nữ, giáo dân cũng như giáo sĩ hiện đang sống giữa thế gian. Bởi đó, chính họ trước tiên phải quyết tâm tự hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa trong đức ái trọn hảo, và các tu hội phải bảo toàn tính chất đặc thù của mình là sống tại thế, để dù ở đâu, họ cũng có thể chu toàn hữu hiệu việc tông đồ giữa thế gian và từ thế gian, theo như tôn chỉ của tu hội.
Tuy nhiên, các tu hội đó phải biết rõ là họ chỉ có thể chu toàn nhiệm vụ trọng đại ấy nếu các hội viên được huấn luyện chu đáo về giáo lý cũng như nhân bản, sao cho họ thực sự là men giữa đời để làm cho Thân Thể Chúa Kitô được mạnh mẽ và luôn tăng trưởng. Vì thế, các bề trên phải thật sự quan tâm đặc biệt đến việc đào tạo tu đức, cũng như chương trình thường huấn tiếp nối về sau.
12.
Đức khiết tịnh “vì Nước Trời” (Mt 19,12) đã được các tu sĩ khấn giữ, phải được quý trọng như một hồng ân cao cả. Thật vậy, đức khiết tịnh mang lại tự do cho trái tim con người theo một cách thế đặc biệt (x. 1 Cr 7,32-35) để mến Chúa và yêu thương mọi người nồng nàn hơn, đồng thời trở thành dấu chỉ đặc biệt của hạnh phúc thiên đàng, và cũng là phương cách thích hợp nhất để các tu sĩ hân hoan hiến thân phụng sự Thiên Chúa và hoạt động tông đồ. Những con người khiết tịnh nhắc tất cả các Kitô hữu nhớ đến cuộc tình duyên tuyệt vời do Thiên Chúa khởi xướng và sẽ được tỏ hiện trọn vẹn ở đời sau, khi Giáo Hội kết hợp với Chúa Kitô là Đấng Phu Quân duy nhất của mình.
Vì thế, khi nỗ lực trung thành giữ lời tuyên khấn, các tu sĩ hãy tin vào lời Chúa Kitô và trông cậy ơn Thiên Chúa trợ giúp, đừng quá tin vào sức riêng, hãy thực hành khổ chế cũng như gìn giữ ngũ quan. Đừng bỏ qua những phương thế tự nhiên giúp cho tinh thần và thể xác được lành mạnh. Như thế, họ sẽ không bị lung lạc vì những chủ thuyết sai lạc cho rằng việc tiết dục trọn vẹn là điều không thể thực hiện, hoặc gây thiệt hại cho sự phát triển con người, đồng thời, nhờ vào bản năng thiêng liêng, họ cũng biết khước từ tất cả những gì có thể phương hại đến đức khiết tịnh. Hơn nữa, mọi người, nhất là các bề trên, hãy nhớ rằng chính tình huynh đệ đích thực giữa các tu sĩ trong đời sống cộng đoàn sẽ bảo vệ đức khiết tịnh an toàn hơn cả.
Sự tiết dục trọn vẹn đụng chạm đến những khuynh hướng thâm sâu của bản tính con người, nên những ai muốn khấn giữ khiết tịnh chỉ nên quyết định và chỉ được chấp thuận sau một thời gian thử thách đầy đủ, và có được sự trưởng thành cần thiết về tâm lý cũng như tình cảm. Không những phải cảnh báo họ về những nguy hiểm thường xảy đến cho đức khiết tịnh, mà còn phải huấn luyện thế nào để họ đón nhận nếp sống độc thân được hiến dâng cho Thiên Chúa, đồng thời cũng làm triển nở con người toàn diện.
13.
Tự nguyện sống khó nghèo để bước theo Chúa Kitô là dấu chỉ được quý trọng đặc biệt trong xã hội ngày nay, vì thế, các tu sĩ hãy chú tâm thực hành và biểu lộ đức khó nghèo bằng những hình thức mới, hợp theo hoàn cảnh sống. Nhờ nhân đức này, họ được san sẻ sự nghèo khó của Chúa Kitô, Đấng tuy giàu có, đã trở nên bần khổ vì chúng ta, để chúng ta được dư dật nhờ sự nghèo khó của Người (x. 2 Cr 8,9; Mt 8,20).
Nếp sống khó nghèo trong đời tu không chỉ hạn hẹp trong việc lệ thuộc bề trên khi sử dụng của cải, nhưng phải nghèo khó cả trong thực tế cũng như trong tinh thần để chỉ lo thu tích kho tàng trên trời (x. Mt 6,20).
Trong phận vụ riêng của mỗi người, các tu sĩ tự ý thức mình phải gắn bó với luật lao động chung trong cộng đoàn, và khi tự cung cấp những gì cần thiết để sống và hoạt động, họ trút bỏ mọi lo lắng áy náy để luôn phó thác vào sự Quan Phòng của Cha trên Trời (x. Mt 6,25).
Các Hội dòng có thể ấn định trong hiến chương cho phép các tu sĩ khước từ gia sản đã có hay sẽ lãnh nhận.
Chính các Hội dòng, tuỳ hoàn cảnh địa phương, hãy nỗ lực trở nên chứng từ chung về đức khó nghèo, và sẵn lòng sử dụng tài sản của Hội dòng để hỗ trợ những nhu cầu của Giáo Hội và nâng đỡ những kẻ túng thiếu, những người phải được tất cả các tu sĩ yêu thương bằng chính trái tim của Chúa Kitô (x. Mt 19,21; 25,34-46; Gc 2,15-16; 1 Ga 3,17). Các tỉnh dòng cũng như các tu sở hãy chia sẻ cho nhau của cải vật chất, để những nơi sung túc hơn có thể giúp đỡ những nơi đang sống trong tình trạng thiếu thốn.
Mặc dù các Hội dòng, với điều kiện phải giữ đúng quy luật và hiến chương, có quyền sở hữu tất cả những của cải vật chất cần thiết để sống và hoạt động, tuy nhiên, hãy tránh mọi hình thức xa hoa, vụ lợi quá đáng hoặc thu tích dư thừa.
14.
Khi tuyên khấn giữ đức vâng phục, các tu sĩ tận hiến ý muốn của mình như lễ vật dâng lên Thiên Chúa, nhờ đó họ liên lỉ kết hợp vững bền với thánh ý mang lại ơn cứu rỗi của Ngài. Vì thế, noi gương Chúa Kitô, Đấng đã đến để làm theo ý Chúa Cha (x. Ga 4,34; 5,30; Dt 10,7; Tv 39,9), “mặc lấy thân nô lệ” (Pl 2,7) và đã trải qua đau khổ để học biết thế nào là vâng phục (x. Dt 5,8), các tu sĩ được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, lấy đức tin tùng phục các vị bề trên đại diện Thiên Chúa, và để các ngài hướng dẫn trong việc phục vụ tất cả những người anh em trong Chúa Kitô, như chính Người, vì tuân phục Chúa Cha, đã phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người (x. Mt 20,28; Ga 10,14-18). Như thế, họ liên kết chặt chẽ hơn với sứ mệnh phục vụ của Giáo Hội, và nỗ lực vươn đến tầm vóc viên mãn của Chúa Kitô (x. Ep 4,13).
Vì thế, các tu sĩ hãy khiêm tốn vâng phục bề trên của mình theo quy chuẩn kỷ luật và hiến chương, trong niềm kính tin và yêu mến đối với thánh ý Chúa, dùng tất cả năng lực trí tuệ, ý muốn cũng như những khả năng và ân sủng Chúa ban để thi hành các mệnh lệnh và chu toàn những phận vụ đã được ủy thác, với ý thức mình đang góp công xây dựng Thân Thể Chúa Kitô theo như ý định Thiên Chúa. Như thế, đức vâng lời trong đời tu trì chẳng những không làm hạ phẩm giá, nhưng còn giúp nhân cách được trưởng thành nhờ phát huy tự do của con cái Thiên Chúa.
Các bề trên sẽ phải trả lẽ về các linh hồn đã được ủy thác cho mình (x. Dt 13,17), vì thế hãy mau mắn tuân hành thánh ý Chúa khi chu toàn bổn phận, và hãy thực thi quyền bính trong tinh thần phục vụ anh em, để phản ánh tình yêu của Thiên Chúa vẫn dành cho mọi người. Các ngài hãy lãnh đạo những kẻ thuộc quyền như đang hướng dẫn những người con của Thiên Chúa, tôn trọng họ như những nhân vị và khích lệ họ thể hiện tinh thần vâng phục tự nguyện. Đặc biệt phải để cho mọi người được tự do trong việc xưng tội và linh hướng. Hãy hướng dẫn các tu sĩ biết cộng tác với thái độ vâng lời tích cực và có trách nhiệm, khi chu toàn bổn phận cũng như khi đóng góp ý kiến. Vì thế, các bề trên hãy sẵn sàng lắng nghe các tu sĩ và khuyến khích họ cộng tác vì lợi ích của Hội dòng và của Giáo Hội, tuy nhiên vẫn phải bảo toàn thẩm quyền quyết định và điều hành các công tác đã hoạch định.
Các tu nghị và các hội đồng phải trung thành chu toàn bổn phận quản trị đã được ủy thác, tuy với nhiều cách thức khác nhau nhưng luôn thể hiện sự tham gia và quan tâm của tất cả các thành viên đối với lợi ích của toàn thể cộng đoàn.
Nếp sống cộng đoàn
15.
Noi gương Giáo Hội sơ khai với số tín hữu đông đảo nhưng chỉ có một lòng một ý (x. Cv 4,32), đời sống cộng đoàn, được nuôi dưỡng bằng giáo lý Phúc Âm, bằng Phụng vụ thánh và nhất là bằng bí tích Thánh Thể, phải được duy trì trong lời cầu nguyện và trong tinh thần hiệp thông (x. Cv 2,42). Là chi thể Chúa Kitô, các tu sĩ hãy tôn trọng lẫn nhau trong nếp sống huynh đệ (x. Rm 12,10) và hãy mang lấy gánh nặng của nhau (x. Gl 6,2). Thật vậy, trong tình yêu Thiên Chúa đã được Thánh Thần tuôn đổ vào các tâm hồn (x. Rm 5,5), cộng đoàn như một gia đình thực sự, được quy tụ nhân danh Chúa, được vui hưởng sự hiện diện của Người (x. Mt 18,20). Đức ái giúp chu toàn lề luật (x. Rm 13,10) và là dây liên kết điều toàn thiện (x. Cl 3,14); chúng ta cũng biết rằng chính nhờ đức ái mà chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống (x. 1 Ga 3,14). Hơn nữa, sự hiệp nhất huynh đệ chứng tỏ rằng Chúa Kitô đã đến (x. Ga 13,35; 17,21), và là điểm phát sinh năng lực tông đồ thật phong phú.
Để tình huynh đệ giữa các tu sĩ được mật thiết hơn, hãy để những người thường được gọi là trợ sĩ, cộng tác viên, hay bằng một tên nào khác, được liên kết chặt chẽ với cuộc sống và hoạt động của cộng đoàn. Trừ khi hoàn cảnh buộc phải làm cách khác, phải liệu sao để trong các dòng nữ chỉ có một bậc nữ tu duy nhất. Giữa các chị em, chỉ còn sự khác biệt do yêu cầu của các công tác được giao, tuỳ theo ơn gọi đặc biệt hay do năng khiếu riêng của mỗi người.
Phần các Đan viện và Hội dòng nam không thuần túy dành cho giáo dân, thì tuỳ bản chất của Hội dòng và theo tiêu chuẩn do hiến chương ấn định, có thể chấp nhận các giáo sĩ và giáo dân với cùng một cấp bậc, có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, trừ những gì thuộc về chức thánh.
16.
Luật nội cấm thuộc quyền giáo hoàng tại các đan viện nữ sống đời chiêm niệm thuần túy vẫn phải được duy trì, nhưng cần thích nghi với những điều kiện thời gian và nơi chốn, cũng nên bãi bỏ những tập tục đã lỗi thời sau khi đã thu thập ý kiến của chính các đan viện.
Riêng những nữ đan sĩ đặc trách việc tông đồ bên ngoài theo định chế, được miễn giữ luật nội cấm thuộc quyền giáo hoàng, để có thể dễ dàng chu toàn bổn phận tông đồ đã được ủy thác, tuy nhiên vẫn giữ luật nội cấm được ấn định theo hiến chương Hội dòng.
17.
Tu phục là dấu chỉ của sự tận hiến nên phải giản dị và khiêm tốn, khó nghèo và đoan trang, nhưng cũng cần phù hợp với sức khỏe và thích nghi với từng địa phương, từng thời đại cũng như với nhu cầu của công tác phục vụ. Y phục của tu sĩ nam cũng như nữ, nếu không còn phù hợp với các tiêu chuẩn trên đây, cần phải được sửa đổi.
18.
Công cuộc canh tân thích ứng cho các Hội dòng lệ thuộc rất nhiều vào việc đào tạo tu sĩ. Vì thế, không nên cho các nữ tu hoặc các tu sĩ không phải là giáo sĩ đảm nhận việc tông đồ ngay khi vừa mãn nhà tập, nhưng phải có những cơ sở đào tạo thích hợp để tiếp tục hướng dẫn họ về đời sống tu đức và hoạt động tông đồ, về giáo lý và kỹ thuật, cũng có thể cho họ thi lấy những văn bằng chuyên biệt.
Nhưng để việc thích nghi đời sống tu trì với những đòi hỏi của thời đại chúng ta có được chiều sâu, và để những tu sĩ đang phụ trách việc tông đồ bên ngoài nhà dòng có đủ khả năng để chu toàn nhiệm vụ, phải cho họ, tuỳ khả năng trí thức và tâm tính riêng, được học hỏi đầy đủ về lối sống, cách cảm nghĩ và suy tư đang thịnh hành trong xã hội hiện tại. Phải biết hoà hợp các yếu tố của việc huấn luyện giúp cho người tu sĩ có được sự thống nhất trong đời sống.
Suốt đời, các tu sĩ hãy chuyên chăm hoàn chỉnh việc huấn luyện tu đức, giáo lý và kỹ thuật, phần các bề trên, hãy tuỳ khả năng lo cho họ có cơ hội, phương tiện và thời giờ để thực hiện.
Các bề trên cũng có nhiệm vụ chọn lựa kỹ lưỡng và chuẩn bị cẩn thận những vị Giám đốc, Linh hướng và Giáo sư cho các cộng đoàn.
--- Còn tiếp ---