SƠ LƯỢC VỀ THÔNG DIỄN HỌC / GIẢI THÍCH HỌC
Joseph Tân Nguyễn, OFM
Một cách ngắn gọn, thông diễn học (hay giải thích học) là bộ môn tìm cách trả lời cho câu hỏi, “Thế nào là hiểu”? Nhưng cách chúng ta tiếp cận vấn đề này thì tùy thuộc vào phạm trù tri thức và bối cảnh tâm lý hay xã hội mà từ đó chúng ta hiểu một đối tượng. Đối tượng của “hiểu” không chỉ là bản văn, tác phẩm nghệ thuật, con người, hay bối cảnh lịch sử nhưng bao gồm tất cả mọi hình thức và tiến trình thông diễn có liên quan đến việc dùng ngôn ngữ và biểu tượng. Với ảnh hưởng của triết học tân thời, mục tiêu của thông diễn học đã chuyển đổi từ việc chú giải bản văn như thế nào cho đúng đến việc tìm hiểu những điều kiện của sự am hiểu. Triết xã hội phê phán (Frankfurt School) và triết hậu hiện đại (post-modern philosophy) cũng đã thử thách thông diễn học truy xét lại các giả định nền tảng về ngôn ngữ và vấn đề am hiểu. Kết quả là thông diễn học ngày nay không chỉ thể hiện sự đồng thuận mà còn bao gồm cả sự hoài nghi về khả năng ngụy tạo tiềm ẩn trong tiến trình thông diễn nữa. Trong bài này, chúng ta sẽ sơ lược qua tiến trình phát triển của thông diễn học, và sẽ nhận ra rằng vấn đề hiểu thì không thể tách biệt ra khỏi vấn đề tồn tại của con người trong lịch sử. Vì lẽ, cuối cùng mọi sự am hiểu thì cũng xoay quanh vấn đề hiểu chính mình.
BA PHẠM VI HOẠT ĐỘNG CỦA THÔNG DIỄN HỌC
Thông diễn học (hay giải thích học) được dịch từ “hermeneutics” gốc Hy Lạp (Hermeneia), tên của thần Hermes, người có nhiệm vụ hoán chuyển thông tin của thần minh thành ngôn từ để con người có thể hiểu. Việc hoán chuyển thông tin, theo truyền thống cổ xưa cùng một lúc vừa là tuyên bố vừa là giải thích, diễn dịch và chú giải, nhất là khi ý nghĩa chưa được rõ ràng. Aristotle qua tác phẩm De Intepretatione (350 BC) đưa ra một số phương pháp để giải thích chân lý của mệnh đề, bao gồm các hạn từ, phạm trù, cách chú giải ý nghĩa, phân tích hậu nghiệm và tiên nghiệm, cùng với các hình thức lý luận (logic). Aristotle cho rằng ngôn ngữ là ký hiệu của khái niệm từ tâm hồn về thế giới bên ngoài; tuy ký hiệu thì khác nhau, nhưng khái niệm bên trong tâm hồn thì giống nhau cho toàn thể nhân loại. Mục đích của chú giải là kiểm soát xem ngôn ngữ có thực sự phản ảnh khái niệm về thực tại bên ngoài không.
Mười tám thế kỷ sau đó, qua nhãn quan hoài nghi về thẩm quyền ngoại tại của thời Phục Hưng, Montaigne (1533-1592) đặt lại vấn đề tri thức bằng câu hỏi “Tôi có thể biết gì?” (Que sais-je?). Montaigne ghi nhận rằng thông diễn học không cho chúng ta một tri thức khách quan nào mà chỉ là “giải thích về giải thích.” Nếu bản văn là biểu hiện ngôn ngữ của một sự am hiểu trước đó, thì khi giải thích một bản văn, chúng ta thật sự chỉ bình phẩm về cách dùng ngôn ngữ, cách trình bày quan điểm và mối tương quan giữa ngôn từ và ngữ cảnh. Chúng ta không thể biết một cách khách quan những gì đã xảy ra mà chỉ những gì được hiểu và thông diễn. Do đó, chân lý chỉ là vấn đề tương quan giữa các ngữ cảnh.
Giữa hai quan điểm khác biệt của Aristotle và Montaigne trên đây là một tiến trình thay đổi trong lịch sử của thông diễn học mà chúng ta sẽ đi sâu hơn trong các bài kế tiếp. Tiến trình thay đổi này có thể được phác họa một cách phổ quát qua ba phạm vi mà ý nghĩa có thể được khai thác: (1) ngôn ngữ, điển tích và cấu trúc của bản văn, (2) tác giả và bối cảnh xuất xứ của bản văn, và (3) những gì người đọc mang vào tiến trình thông diễn. Nói cách khác, chúng ta có ba không gian để khai triển vấn đề hiểu: “bên trong”, “phía sau”, và “phía trước” bản văn.
Trước tiên, ý nghĩa có thể được khám phá từ “bên trong” bản văn. Cách tiếp cận này dựa trên quan điểm cho rằng ngôn ngữ là biểu tượng hay ký hiệu cho thực tại mà nó ám chỉ, cả thực tại thể lý lẫn thực tại tâm linh. Mối tương quan giữa ý nghĩa và ý vị của bản văn có thể được xác định theo phương pháp chú giải từ nguyên hay ẩn dụ, cũng như lịch sử hay tiên trưng. Ngôn ngữ có thể được giải thích từ nhãn quan luân lý, duy lý hay thần bí. Có sự hổ tương giữa luận điểm và cấu trúc của bản văn, cũng như giữa ý nghĩa của từng phần và toàn phần bản văn. Sẽ cần môn tu từ học để giải mã các ngôn ngữ xa lạ và điển tích mà ý nghĩa của nó đã trở thành mơ hồ vì khoảng cách thời gian và văn hóa. Cũng có ý kiến cho rằng, khoảng cách lịch sử thì không quan trọng bằng khoảng cách tâm linh. Người đọc cần phải có một sự thanh luyện tâm hồn trước khi có thể nắm bắt được ý nghĩa chân thực của bản văn (Augustine). Nói chung, mục tiêu của thông diễn học ở không gian “bên trong” là hồi phục các mức độ chân lý đang tiềm tàng trong bản văn.
Quan điểm thứ nhì cho rằng hiểu một bản văn có nghĩa là phải nắm bắt được hậu cảnh của bản văn, tức là không gian “phía sau” bản văn như: ý định của tác giả, cách dùng ngôn ngữ, hình thức văn hóa và lịch sử vốn chuyển tải tư tưởng thành tác phẩm. Giải thích học ở không gian thứ nhì không chỉ bao gồm ý nghĩa và ý vị của bản văn, mà cả bối cảnh xã hội, tiền kiến và tiền thức của tác giả. Nếu tác phẩm là những làn sóng mà tư tưởng của tác giả đã tạo nên trên biển cả ngôn ngữ thì muốn “hiểu” tác phẩm chúng ta cần tận dụng cả kỹ thuật ngữ pháp lẫn kỹ năng tâm lý. Hiểu một tác phẩm là nổ lực lội ngược dòng chảy từ ngôn ngữ của bản văn trở về tư tưởng của tác giả. Người chú giải cần phải có tầm hiểu biết về “chiều rộng” của ngôn ngữ (so sánh cách dùng ngôn ngữ của bản văn với các tác phẩm khác đồng thời) lẫn “chiều sâu” của tâm hồn của tác giả (nhập tâm, divination). Từ đó, thông diễn học là một hành trình tiệm tiến và dọ dẫm, tức là một nghệ thuật cân bằng giữa hai khía cạnh khách quan (tác phẩm) và chủ quan (tác giả) của ngôn ngữ. Triết học Khai Sáng là động lực đứng sau các phát triển này, nhưng với cao điểm của triết học lãng mạn thì sứ mệnh lý tưởng của thông diễn học trở thành “hiểu tác giả hơn tác giả hiểu chính mình” (Schleiermacher, 1768-1834).
Ở không gian thứ ba thì việc thông diễn càng phức tạp hơn vì ý nghĩa của bản văn thì luôn tồn tại trong mối tương quan giữa bản văn và người hiểu. Cả hai chân trời tri thức của bản văn và của người đọc cần phải được dung hòa với nhau để việc am hiểu trở thành hiện thực. Ngoài các ý nghĩa bên trong bản văn và phía sau bản văn, chúng ta cần phải ý thức về tiềm thức, tiền kiến và dự phóng của người đọc. Không độc giả nào mà không có một lịch sử ảnh hưởng bởi các chân trời thông diễn trước đó. Chúng ta không bao giờ tiếp cận bản văn một cách vô tư, mà luôn luôn hiểu qua nhãn quan và ảnh hưởng của các bản văn cổ điển lên cách chúng ta hiểu. Hay nói cách khác, hiểu một tác phẩm tức là mang ý nghĩa của nó vào hiện tại, cho phép bản văn nói lên với chúng ta, bằng ngôn ngữ của chúng ta, chân lý mà chúng ta rút tỉa được từ nó. Vì thế, chúng ta không nhất thiết hiểu bản văn hơn tác giả hiểu chính mình (như triết học lãng mạn), nhưng chúng ta sẽ hiểu khác hơn cách tác giả hiểu bản văn.
Mặt khác, nếu thông diễn là hành vi tham dự vào ngôn ngữ, thì nó cũng bao hàm khả năng chân lý đang bị che lấp bởi những ý thức hệ quyền lực trong việc thông diễn bản văn. Sự băng hoại này có thể hiện diện trong tiến trình sản xuất bản văn, tiền thức của người đọc, và trong mối tương quan giữa người đọc và bản văn. Khả năng hiểu lầm có thể đến từ ý đồ chính trị, quyền lực, chủ nghĩa đối xử phân biệt cũng như kỳ thị chủng tộc và giới tính. Sứ mệnh của thông diễn học không chỉ là hồi phục chân lý tiềm tàng trong bản văn mà còn lột trần những gì đang bị che đậy hay bị tha hóa. Do đó, ở không gian thứ ba, cần phải có một tri thức luận hoài nghi hay một thông diễn học phê phán vốn có hiệu lực giải phóng ý nghĩa của bản văn ra khỏi sự thống trị của hệ thống ý thức hệ nào đó đang thao túng cách chúng ta hiểu. Giống như một chuyên gia tâm lý, người đọc phải có sự đồng cảm với bản văn, nhưng cũng cần giữ một khoảng cách phê phán để có thể nhận diện khả năng ý nghĩa đang được ngụy tạo trong tiến trình thông diễn.
TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA THÔNG DIỄN HỌC
Ba không gian của việc am hiểu được thể hiện qua ba giai đoạn phát triển của thông diễn học. Tuy có những chồng chéo lên nhau về mục tiêu vả kỷ năng chú giải bản văn, nhưng nói chung tính đặt thù của ba không gian này đã được khai triển sâu rộng qua các giai đoạn lịch sử sau đây.
1. Thông diễn học như là phương pháp chú giải Kinh Thánh
Thông diễn học khởi đầu bằng những nổ lực giải thích các truyền thống tôn giáo. Mọi tôn giáo đều khởi đầu với kinh nghiệm, ý tưởng, ngôn ngữ và biểu tượng của đấng sáng lập, nhưng chính các hiện tượng này cũng là một sự thông diễn của những truyền thống đã có trước đó rồi. Trong Kitô giáo, Đức Giêsu đã bày tỏ cách mình hiểu và chú giải Cựu Ước qua kinh nghiệm “Abba” và sứ vụ “Nước Trời” của Ngài. Thánh Phaolô cũng giải thích Cựu Ước nhưng qua kinh nghiệm hoán cải và sự gặp gỡ với Đức Kitô phục sinh. Các tác giả Tân Ước đã tìm cách kết nối “bầu cũ và rượu mới” để diễn giải ý nghĩa của biến cố Kitô và lý do cho sứ mệnh và sự tồn tại của giáo hội. Với sự gia nhập của văn hóa và triết học Hy-lạp sau đó, thì có những trường phái chú giải có tính hệ thống hơn, dùng biểu tượng và ẩn dụ tại Alexandria, hoặc dựa trên quan điểm lịch sử và tiên trưng tại Antioch. Một khi phương pháp chú giải Kinh Thánh trở nên phức tạp và đa dạng thì thẩm quyền giáo hội cũng trở thành một cách thông diễn qua các quy phạm của đức tin.
Mọi việc chú giải Kinh Thánh luôn bao gồm các vấn đề như: khả năng tiếp thu bản văn với ngôn ngữ xa lạ và điển tích bí ẩn, ngữ nghĩa và bối cảnh xuất phát của bản văn, ý định của tác giả và truyền thống, tính toàn vẹn và qui điển của bản văn. Trong Giáo hội sơ khai, Kinh Thánh là “Cựu Ước” và mọi việc chú giải Kinh Thánh đều qui về mối tương quan với Đức Kitô. Ví dụ, muốn hiểu về Abraham, Mosen hay Isaiac thì hãy xem nhưng nhân vật này có làm nổi bật khía cạnh tiên trưng nào về Đức Kitô hay không (trường phái Antioch). Còn chú giải theo ẩn dụ thì phân biệt ý nghĩa theo những mô hình vật chất hay tinh thần, như trong câu nói, “Người Do Thái đọc Kinh Thánh theo nghĩa thân xác, còn Kitô hữu đọc theo nghĩa thần khí” (trường phái Alexandria). Từ Origen (185-254) đến Augustine (354-430) đều nhắm vào các điều kiện phải có trước, như linh đạo thanh tẩy hoặc đời sống cô tịch, để giúp người đọc có thể nhận ra các mức độ ý nghĩa thiêng liêng của bản văn. Bước vào thời Trung cổ thì việc chú giải Kinh Thánh trở nên phong phú hơn với nhiều mức độ ý nghĩa của bản văn như: nghĩa nguyên văn (literal), nghĩa thiêng liêng (spiritual), nghĩa tiên trưng (typological) hay nghĩa ẩn dụ (allegorical).
Hơn nữa, Kinh Thánh cũng được viết bởi nhiều tác giả qua những bối cảnh lịch sử rất khác biệt, cho nên việc chú giải Kinh Thánh đòi hỏi phải có ý thức về những vấn đề như sự thống nhất và tính quy điển toàn vẹn của Kinh Thánh, hoặc thẩm quyền của Lời Chúa và lịch sử tính của bản văn. Theo Raymond Brown, Kinh Thánh là một sự tổng hợp và chọn lựa quy điển của rất nhiều bản văn vốn được sáng tác trong thời gian trải dài hơn một nguyên niên do nhiều tác giả và đến từ nhiều bối cảnh lịch sử khác nhau. Vì thế, chú giải Kinh Thánh chính là việc “chú giải về chú giải”. Chúng ta cần xác định đâu là “chìa khóa” để chú giải cho đúng theo tinh thần quy điển của Kinh Thánh. Ý nghĩa của Lời Chúa thì dựa trên ý định của tác giả và cộng đoàn đức tin nguyên thủy hay ý nghĩa mà độc giả và cộng đoàn ngày nay nhận ra nơi bản văn? Quy điển của việc chú giải đến từ sự thống nhất nội tại như truyền thống ngôn sứ hay truyền thống tư tế, hay từ bên ngoài bản văn như thẩm quyền của Giáo hội? Thông diễn học cận đại nhấn mạnh vào khả năng phục hồi ý nghĩa gốc của bản văn, trong lúc đó thông diễn học hiện đại thì chú tâm về những gì người đọc mang vào bản văn.
2. Thông diễn học như khoa giải thích học riêng biệt
Ngoài việc chú giải Kinh Thánh, thông diễn học có một lịch sử lâu dài giải thích và phê bình thơ của Homer và các thi sĩ khác. Đến cuối thời Trung Cổ, nhiều tư liệu từ thời Cổ Đại được khám phá, nhưng vì khoảng cách thời gian, văn tự cổ đa nghĩa, vốn làm cho ý nghĩa trở nên thất lạc hoặc mơ hồ. Khoa Văn hóa học (cultural studies) ra đời với mục đích làm rõ những khó khăn về từ vựng, ngữ pháp, ngữ cảnh của văn bản. Nhiệt tình say mê văn hóa Cổ Đại và giải phóng tư tưởng tiềm tàng trong đó đã thúc đẩy khoa nghiên cứu văn hóa phát triển nhanh chóng. Đồng thời cũng kéo theo lĩnh vực tôn giáo, cùng với sự hứng khởi của phong trào Cải Cách, đã áp dụng lối giải thích của mình vào Kinh Thánh, với mục đích muốn thoát khỏi sự ràng buộc của thẩm quyền Giáo Hội Rôma. Xuất phát từ mục đích đó, nguyên tắc chung cho việc giải thích được đề xướng và từ đó phát triển nhu cầu thần học giải thích.
Do nhu cầu nhận thức lại truyền thống của não trạng Phục Hưng và nhu cầu cải cách của giáo phái Tin Lành, người ta phát hiện rằng phải có một trình độ huấn luyện thích đáng về văn học, thì mới có thể hiểu nội dung của văn bản. Do vậy, hai hình thái thông diễn học - tu từ học và văn hóa học - cần phải hợp nhất làm một. Thông diễn học trở thành một thứ kỹ thuật giải thích chính xác, một thứ phương pháp luận giải thích văn bản theo nghĩa hẹp. Khuynh hướng mới là chuyển từ nghiên cứu ngôn từ của Kinh Thánh sang nghiên cứu bối cảnh lịch sử của tác giả. Mỗi tác phẩm đều có tác giả con người, và tác giả bơi lội trong dòng chảy của ngôn ngữ và văn hóa của họ, cho nên chú giải là nghiên cứu tiến trình tư tưởng trở thành tác phẩm. Đây là nỗ lực tìm hiểu khía cạnh văn hóa, sử liệu và cách tác giả dùng ngôn ngữ để diễn đạt tư tưởng của mình.
Johann Ernesti (1707-1781) cho rằng linh ứng không phải là chìa khóa cho việc chú giải Kinh Thánh. Ngôn ngữ là những ký hiệu với ý nghĩa tùy thuộc vào điều kiện xã hội và địa phương chứ không có thực tại bí ẩn nào khác. Chúng ta cần nghiên cứu cách dùng ngôn từ, bối cảnh văn hóa và lịch sử để xác định ý nghĩa của Kinh Thánh. Trong lúc đó, Friedrich Ast (1778-1841) lưu tâm về chiều kích nghệ thuật của tác phẩm cổ điển và khía cạnh “tha ngã” hay tính xa lạ của bản văn. Thông diễn học cần khai triển một loại bình phẩm sử liệu (redaction criticism). Ast nhấn mạnh về sự phát triển của tư tưởng nơi tác giả. Cuối cùng Schleiermacher (1768-1834) đã cải tiến thông diễn học thành một bộ môn triết học về “ý nghĩa” với nhiều kinh nghiệm phong phú được tích lũy qua việc chú giải Kinh Thánh và văn hóa cổ đại. Những gì Ast cho là “xa lạ” thì được Schleiermacher xem là “độc đáo và thiên tài”. Là một triết gia, Schleiermacher đã hệ thống hóa các kỹ năng chú giải để biến thông diễn học thành một phương pháp luận phổ biến, với một sứ mệnh rất lãng mạn: “hiểu tác giả hơn chính tác giả hiểu chính mình”.
Nói chung, thông diễn học thời Trung Đại chuyển hướng từ ý nghĩa vật chất sang ý nghĩa tâm linh nhưng vẫn nhấn mạnh vào chiều kích bản thể của ngôn ngữ. Đến thời Ánh Sáng, thông diễn học từ bỏ hoàn toàn ý nghĩa nội tại của bản văn và hướng về ý nghĩa ngoại tại (bối cảnh tự nhiên) của ngôn ngữ. Giai đoạn này đã giới thiệu một số “vòng tròn giải thích” giữa việc am hiểu bản văn và hậu cảnh văn hóa, lịch sử, hay cách dùng ngôn ngữ. Triết lãng mạn tìm cách cân bằng giữa hai yếu tố, kỷ thuật giải thích ngữ pháp và kỷ năng nhập tâm, và cho rằng tác phẩm là biểu hiện bên ngoài của tinh thần sáng tạo đặc thù bên trong. Đóng góp quan trọng của Schleiermacher là việc hệ thống hóa lý luận thông diễn học, chuyển trọng tâm nghiên cứu từ văn bản được hiểu sang bản thân của việc hiểu. Ông cho rằng, nếu “tinh thần con người” là cái sáng tạo của vô thức ở thiên tài cá biệt, thì hiểu cũng phải là một hoạt động sáng tạo. Schleiermacher đề xướng hai khía cạnh: giải thích ngữ pháp hay khách quan để xử lý đặc điểm ngôn ngữ mà tác giả biết rõ, và giải thích tâm lý hay “nhập tâm” để nghiên cứu tư tưởng sản sinh như thế nào từ toàn bộ cuộc sống của tác giả. Tuy cả hai loại giải thích đều cần thiết, nhưng Schleiermacher coi trọng loại thứ hai hơn, tức là nhu cầu dựng lại quá trình sáng tạo của tác giả. Người giải thích phải nắm bắt những gì trong quá trình sáng tạo mà tác giả trong lúc sáng tạo không ý thức được. Qua sự quân bình giữa tri thức lịch sử và tri thức ngôn ngữ học, người chú giải hiểu cách tác giả tồn tại qua ngôn ngữ của bản văn.
3. Thông diễn học qua các nhãn quan khoa học nhân văn
Sau Schleiermacher, Dilthey muốn nhấn mạnh về khía cạnh khách quan của tồn tại khi nghiên cứu văn hóa và các khoa học nhân văn. Nhưng đến thời Heidegger và Gadamer, vấn đề của thông diễn học trở thành vấn đề của triết học về ý nghĩa tồn tại mà phạm trù “hiện sinh” cố gắng nắm bắt. Với nỗ lực của Heidegger- Gadamer liên kết vấn đề ý nghĩa với vấn đề chân lý thì thông diễn học hiện đại trở thành một phương pháp triết học giúp mở ra chiều kích hiện sinh của Dasein. Loại thông diễn học này nhấn mạnh khía cạnh tiền thức trong mọi tiến trình thông diễn như khoa học, văn hóa và ngôn ngữ. Luôn luôn có một chiều kích tự hiểu biết bao hàm trong mọi hiểu biết về thế giới vì không có một sự hiểu biết hay thông diễn nào mà độc lập khỏi chân trời của tự thức (self-understanding). Heidegger cho rằng thông diễn học đang thay thế siêu hình học và tri thức luận.
Đây là hậu quả của sự chuyển hướng vào tính ngôn ngữ của tồn tại. Heidegger đề nghị dùng phạm trù “hiện sinh” (existentielle) thay thế cho phạm trù phẩm/lượng của Aristotle. Triết học hiện đại nhấn vào cách con người cảm nhận, sống, suy tư và thông hiểu về chính sự tồn tại của mình. Descartes tìm nền tảng chắc chắn cho tri thức dựa trên lý trí hay tự thức của con người. Kant khai triển khả năng phán đoán tiên nghiệm của lý trí, các phạm trù có khả năng tổ chức các kinh nghiệm để trở thành đối tượng cho tri thức. Hegel thì không có trải nghiệm tiên nghiệm, vì tất cả chúng ta đang ở trong dòng chảy của lịch sử và văn hóa. Gadamer thì đi xa hơn nữa. Mọi trải nghiệm của chúng ta đã được điều kiện hóa bởi các tác phẩm cổ điển và phương cách văn hóa của chúng ta tiếp cận chúng. Mọi chân trời chủ thể của chúng ta đều nằm trong phạm vi của thông diễn. Gadamer thử thách nhận thức luận đi tìm câu trả lời cho câu hỏi làm thế nào chúng ta biết. Hỏi được như thế là đã giả định một số tiền kiến về tri thức và kinh nghiệm văn hóa đã có sẵn rồi.
Trong khi chủ đích của truyền thống thông diễn học tân thời Schleiermacher-Heidegger-Gadamer là khôi phục chân lý tiềm tàng trong mối tương quan giữa bản văn và chủ thể tiếp cận bản văn, thì thuyết phê bình xã hội cho rằng ý nghĩa không chỉ hiện diện trong bản văn mà còn có thể bị băng hoại, che đậy và thống trị bởi ý muốn quyền lực. Nietzsche dùng phương pháp truy tầm gia phả để vạch trần các ý đồ tiềm ẩn trong truyền thống và phương pháp chú giải. Cần phải có một thông diễn học hoài nghi để giải thoát ý nghĩa có thể đang bị thao túng vì quyền lực thống trị nào đó trong bản văn. Trường phái phê bình xã hội ở Frankfurt đề nghị dùng tính đồng thuận vốn được giả định trong mọi hành vi ngôn ngữ (communicative action theory) như là nền tảng phê phán để nhận diện các hệ thống quyền lực, giới tính, và kinh tế trong mọi hình thức tư duy xã hội. Các nhà học giả thuộc “Frankfurt School” (Adorno, Horkheimer, Habermas, Foucault) đã đóng góp phần lớn vào sự hình thành của một khúc quanh mới cho việc thông diễn, đó là thông diễn học phê phán.
Trường phái phê bình xã hội cho rằng Gadamer xem thông diễn học là khoa học nghiên cứu bản thân ngôn ngữ và như thế đã tuyệt đối hóa tính ngôn ngữ về mặt bản thể luận. Theo Habermas, ngôn ngữ chỉ là một phương tiện của thực tại, còn có các nhân tố cấu thành khác lên tư tưởng hành vi của con người. Habermas cũng phản đối cách Heidegger đã bản thể hóa thông diễn học, thay vì nhận diện các điều kiện và tính miêu tả hữu hạn của thông diễn học. Habermas cho rằng giống như phân tâm học (psycho-analysis) và phê phán ý thức hệ (critique of ideology), thông diễn học chỉ liên quan tới việc lột trần các nguyên tắc lịch sử xã hội tiềm tàng trong tiến trình hiểu với mục tiêu giúp cho sự thông diễn này được minh bạch hơn.
Paul Ricoeur muốn bắt nhịp cầu giữa thông diễn học hữu thể luận (Gadamer) và thông diễn học phê phán (Habermas). Một thông diễn học cần đi song song với tư duy mang tính phê phán, nhưng không nhất thiết đòi hỏi chúng ta phải bỏ lại đàng sau truyền thống và bản văn cổ xưa. Như thế, bản văn có thể mở ra cho chúng ta một không gian mà qua đó các khả năng tồn tại và lối sống trong xã hội được tỏ lộ. Tính năng động hay “khả năng sản xuất” của bản văn, có thể soi mòn quan điểm cho rằng thực tại chỉ là một hệ thống gồm những ý niệm cứng nhắc, áp đặt thẩm quyền ưu tiên của nó lên tiến trình thông diễn. Trái ngược với khởi điểm tri thức luận dựa trên “cogito” của Descartes, Ricoeur cho rằng chỉ sau lộ trình thông diễn học, thì chúng ta mới có thể tìm gặp chủ thể đang cố gắng chiếu phóng mình qua ngôn ngữ và biểu tượng. Bản văn là nỗ lực con người tồn tại trong lịch sử.
Chủ thuyết hậu cấu trúc (post-structuralism) của Derrida cho rằng Gadamer vẫn chưa thoát ra được truyền thống bắt đầu từ Plato, vốn xác định thực tại, logos và lý tính theo siêu hình học duy thực. Qua cuộc tranh luận với Gadamer về cách diễn giải tư tưởng Heidegger tại Paris (1981), Derrida đã đặt nghi vấn về sự am hiểu như là một tiến trình liên tục mở ra, và khẳng định rằng ý nghĩa chỉ trở thành khả thi dựa trên sự thiếu vắng qua các mối quan hệ của một từ với những từ khác trong một mạng bao la và vô số các cấu trúc phức tạp mà chính nó là bản chất của ngôn ngữ. Người đọc phải phấn đấu để vượt qua sự hiểu lầm và ý tưởng ngụy tạo của ngôn ngữ công cộng vốn có thể đưa đến các ảo tưởng hiểm nguy. Không có gì bảo đảm rằng lộ trình thông diễn học sẽ đưa chúng ta đến một viễn tượng tồn tại đầy ý nghĩa như truyền thống này đã hứa hẹn. Như thế, nổ lực hồi phục ý nghĩa của các “đại tự sự (grand narratives) cuối cùng chỉ dẫn đến những ngõ cụt tri thức.
Kết:
Sơ lược qua lịch sử phát triển trên đây, chúng ta thấy thông diễn học là một tên gọi chung cho nổ lực “hiểu” của con người, khởi đầu từ nhu cầu diễn giải Kinh Thánh, rồi trở thành một học thuật giải thích ý nghĩa của văn hóa và các tác phẩm cổ điển, và cuối cùng là một triết lý về cách con người tồn tại. Động lực chung của tiến trình này là con người muốn hiểu về Thiên Chúa, về thế giới, hiểu về lịch sử và hiểu chính mình. Tuy là những linh thể tồn tại trong thời gian và không gian, nhưng con người có tầm suy tư về các thực tại siêu việt. Khả tính siêu việt của con người còn què quặt không như các bậc thần thánh do đó, tri thức không có một điểm tựa tuyệt đối như “cogito” mà là một tiến trình dọ dẫm trong lịch sử. Như thế, thông diễn học không hoàn toàn là một phát minh Hiện Đại, nhưng chỉ nhắc nhở con người về sự khiêm tốn của các nhà hiền triết thời Hy Lạp Cổ Đại: “Con người, hãy hiểu chính mình!”
Tài liệu tham khảo:
Thông Diễn Học, Joseph Tân Nguyễn, OFM. NXB Đồng Nai, 2022.