SƠ LƯỢC VỀ TRIẾT HỌC ĐẠO ĐỨC - Phần 2/2
Lm. Joseph Tân Nguyễn, OFM
--------------------
SỰ THIỆN VÀ BẢN TÍNH CON NGƯỜI
Đạo đức học là môn nghiên cứu về cách chúng ta phải sống hay chọn lựa sự thiện hảo như thế nào để đạt đến hạnh phúc. Nhiều người cho rằng sự thiện cao cả nhất của con người là thể hiện tiềm năng và bản tính của mình một cách trọn vẹn. Nhưng “bản tính con người” là gì? Và làm thế nào chúng ta thể hiện được bản tính ấy?
Nếu cho rằng con người là “con vật có lý trí” thì đạo đức là tận dụng lý trí để mang lại hạnh phúc cho mình. Hoặc, nếu bản tính con người là tìm kiếm sự sung mãn cho tất cả mọi người, thì đạo đức chính là đạt đến các điều vị lợi ấy. Như thế, việc bảo vệ và phát huy các “khuynh hướng tự nhiên” của bản tính con người là điều thiện hảo và đáng theo đuổi. Đây là cơ sở cho sự phát triển của đạo đức học “luật tự nhiên”.
Trong vở kịch “Antigone” của Sophocles, người hùng Antigone nại đến qui luật cao cả này để biện minh cho hành vi chôn xác người anh ruột, cho dù có lệnh vuacấm vì người anh đã nổi loạn chống lại chính quyền thành Thebes. Hãy xem đoạn đối thoại sau đây:
- Vua Creon: Hãy nói cho ta biết, nhà ngươi có biết lệnh vua cấm làm việc này không?
- Antigone: Lẽ dĩ nhiên tôi biết. Lệnh vua rất rõ ràng.
- Vua Creon: Sao nhà ngươi vẫn coi thường lệnh vua?
- Antigone: Đối với tôi, lệnh này không đến từ Thần Zeus và cũng không do Thần Công lý hay do các vị Thần dưới trướng Zeus ban ra. Hơn nữa, tôi không nghĩ rằng luật của nhà vua, trong thân phận là con người, lại có thẩm quyền cao hơn luật của Thần Minh vốn đã có tự muôn đời. Giá trị của luật các Thần Minh đã có từ hôm qua, tiếp tục hôm nay và mãi mãi và không ai thật sự biết chúng đã bắt đầu từ thủa nào...
Phản ứng và lý luận của Antigone trên đây cho thấy ngay từ thủa ban đầu của triết học, con người đã nhận ra lương tâm và lý trí là nền tảng tất yếu cho phán đoán đạo đức, căn bản hơn cả mọi qui luật tôn giáo hay luật pháp nhà nước. Trong lương tâm con người đã được khắc ghi một quy luật luân lý có từ đời đời và con người biết nó qua lý trí. Con người là một chủ thể luân lý và trên nền tảng những gì “tự nhiên đối với con người”, triết Hy Lạp Cổ đại đã khai triển một số mô hình đạo đức học, rất quan trọng cho sự phát triển của triết học Tây phương sau này.
Tuy nhiên, không phải mọi triết gia đều đồng ý rằng đạo đức học cần phải được xây dựng trên bản tính con người hoặc chỉ có một cách duy nhất để hiểu bản tính con người. Có thể họ cho rằng bản tính con người cơ bản là ích kỷ hoặc chưa hoàn toàn và đạo đức là khắc phục khuynh hướng vị kỷ tự nhiên đó. Có triết gia cho rằng giá trị đạo đức cơ bản là thể hiện bản tính độc đáo riêng qua các chọn lựa tự do của chủ thể. Có giả thuyết cho rằng người khác phái không thể có chung bản tính và như thế phụ nữ cần thể hiện bản tính mình cách độc lập và sáng tạo, không phải theo mô hình của phái nam. Vì thế, khó mà đạt đến một quan điểm chung hay sự thống nhất về “bản tính con người”.
Trong thời Cận đại, triết học đạo đức đã chuyển mình từ một môn học về hạnh kiểm và tính cách đúng đắn của bản tính con người sang một khoa nghiên cứu về các hình thức hay nguyên tắc cần thiết cho việc đánh giá hành vi đạo đức. Nhiều phạm trù đạo đức học mới đã được đưa ra như: hiệu quả (consequentialism), ý định (intentionality), hình thức (formal), bổn phận (deontology), nhân cách (character), và nhân đức (virtues).
Trước tiên, thuyết “hiệu quả” là khuynh hướng đánh giá một hành động hay tính cách tùy theo khả năng chúng thăng tiến hay gây tổn hại đến hạnh phúc con người. Nhưng “ý định” cũng là yếu tố không kém quan trọng, vì một người có thể làm việc từ thiện mang lại nhiều kết quả tốt cho người nghèo, nhưng với tham vọng chính trị hay ý đồ bất chính thì hành vi của họ chưa chắc là cao thượng.
Nếu cả hai khuynh hướng ở trên đều nhắm vào thực chất của hành vi, thì khuynh hướng thứ ba nhắm vào “hình thức luân lý phổ quát” được cho là đúng đối với một hành vi. Một hành vi chỉ là đúng nếu ta có thể ước ao rằng mọi người trong cùng hoàn cảnh sẽ thực hiện, và ta có bổn phận phải tuân thủ hình thức luân lý phổ quát của nó. Ví dụ, hành vi gian lận khi làm bài thi là sai vì “hình thức luân lý” của hành vi đó (tức là làm mọi cách để đạt điểm cao hơn những người khác) không thể phổ quát hóa được; vì nếu mọi người vào phòng thi sẽ gian lận thì kết quả của cuộc thi sẽ bào mòn ý định của người muốn gian lận.
Cuối cùng, quan điểm “nhân cách” cho rằng hành động chỉ là cách diễn tả của một cá tính đã được hình thành nơi cá nhân. Loại đạo đức học này nhắm vào việc rèn luyện nhân cách thay vì cân nhắc về kết quả hay hình thức đúng của hành vi. Đạo đức học nhân đức (virtues ethics) không hỏi chúng ta nên làm gì để mang lại hạnh phúc, mà chúng ta nên “trở nên con người” như thế nào để đặt chúng ta vào tư thế sẳn sàng chọn lựa hành vi đúng và tốt cho mọi hoàn cảnh.
Ngoài ra, nếu luân lý xuất phát từ những thói quen của con người sống trong xã hội thì phán đoán đạo đức lại không thể hoàn toàn tuyệt đối hay hoàn toàn tương đối. Từ phái Ngụy biện cho đến Nietzsche đã cho thấy phán đoán đạo đức khó tránh khỏi các yếu tố chủ quan. Có cách nào bênh vực cho tính khách quan của phán đoán đạo đức không? Mặt khác, mọi suy tư và hành vi con người đều có nguồn gốc và bị chi phối bởi các yếu tố thể lý, tâm lý hay bối cảnh xã hội mà chúng ta đã trưởng thành. Vậy nếu hành vi con người thì không hoàn toàn tự do, thì làm sao phán đoán đạo đức trung thực và khách quan được? Hơn nữa, sụ hiểu biết và tri thức của con người thay đổi và tiến hóa theo thời gian, như vậy các giá trị đạo đức của truyền thống có thay đổi không? Tiến hóa có loại bỏ các giá trị đạo đức cổ điển không? Trong những bài kế tiếp, chúng ta sẽ khai triển các chủ đề nóng bỏng này.
ĐẠO ĐỨC HỌC VÀ CÁC KHOA HỌC KHÁC
Các nhà xã hội học tiếp cận đạo đức từ góc độ mô tả hay tường thuật. Họ đưa ra những giả thuyết phổ quát để giải thích chọn lựa của họ cũng như làm sáng tỏ quan điểm đạo đức của các cá thể hay tập thể xã hội. Nói chung, khoa xã hội học tránh đề nghị một hệ thống luân lý hay xử lý nào cho xã hội, nhưng nếu họ bước vào phạm vi này thì họ trở thành các triết gia đạo đức học.
Nhà nghiên cứu giáo dục có thể tìm cách áp dụng các học thuyết đạo đức nào cho thích hợp với quan điểm giáo dục của họ. Có những triết gia như Plato đã đi sâu hơn, khai triển về các chủ đề giáo dục đạo đức. Nhưng một nhà giáo dục sẽ cẩn thận cân nhắc về hậu quả và cách thức áp dụng đạo đức học trước khi đi đến quyết định chọn lựa. Họ không bận tâm về bản chất, ngôn ngữ hay cách lý luận của đạo đức học cho bằng tìm cách khai triển mối tương quan giữa viễn tượng về một nền giáo dục tốt và các áp dụng luân lý đúng vào bối cảnh thực tiễn hàng ngày.
Thần học cũng khai thác các học thuyết đạo đức và hệ thống phán đoán cho thích ứng với truyền thống tôn giáo. Nhưng lý luận đạo đức của thần học thì dựa trên viễn tượng luân lý đến từ “mạc khải” vốn đã được cộng đoàn các tín hữu thừa nhận. Một thần học gia luân lý khởi sự từ những gì đức tin và truyền thống tôn giáo khẳng định về sự thiện hảo đến từ những quy luật mà Thiên Chúa là Đấng Thiện Hảo tối cao đã kêu gọi con người tuân thủ để đạt đến sự sống vĩnh cửu.
Trong khi đó, triết học đạo đức dựa trên lý trí và nới rộng quan điểm của mình để bao gồm các lãnh vực rộng rãi hơn tôn giáo. Mục đích của triết học đạo đức là xác định tính nhất quán và hợp lý của lý luận đạo đức. Khởi đầu, triết học đạo đức giả định một số “tiêu chuẩn” (moral standards) căn bản cho sự thiện hay hạnh phúc của con người như: hiệu quả tốt mà hành vi sẽ mang lại, hình thức đúng của chọn lựa, nhân cách phù hợp cho đời sống luân lý. Từ mỗi tiêu chuẩn này, triết học đạo đức suy ra nhiều giá trị luân lý (moral values) vốn sẽ hình thành các quy tắc (moral principles) sẽ được dùng để phán đoán (moral judgement) các hành vi.
Các nhà làm luật, chính quyền hữu trách cũng tra cứu các chủ đề liên quan đến đạo đức học. Nhưng luật pháp và đạo đức là hai lãnh vực khác nhau. Hành vi trái với đạo đức không nhất thiết phải là vi phạm pháp luật (cha mẹ nói dối để dạy những giá trị quan trọng hơn cho con cái). Hoặc hành vi phạm pháp là sai nhưng chưa hẳn là xấu (lấy của dư thừa của nhà giàu cho người nghèo). Tuy chính trị gia thường phản đối việc “luật hóa” luân lý (chế độ thần quyền) hay “luân lý hóa” luật pháp, nhưng họ vẫn dùng triết đạo đức như nền tảng cho việc chú giải luật pháp hay bênh vực cho quan điểm của họ.
--------------------
Tài liệu tham khảo:
Joseph Tân Nguyễn, Đạo Đức Học Tổng Quát, NXB Đồng Nai, 2022.