Ngày tháng: 04/05/2024
Đang truy cập: 2

Thần Lý Học Và Vấn Đề Sự Dữ - Phần 2/2 - Joseph Tân Nguyễn, ofm

THẦN LÝ HỌC VÀ VẤN ĐỀ SỰ DỮ - Phần 2/2

Joseph Tân Nguyễn, ofm

NO PHOTO

      SỰ TÍCH & HUYỀN THOẠI: THẾ GIỚI QUAN VỀ SỰ DỮ

Các biểu tượng về sự dữ được đan xen với nhau để tạo nên tình tiết trong các huyền thoại “kể lại” nguồn gốc của sự dữ như một lịch sử nguyên thủy của nhân loại. Các triết gia như Eliade, Cassiree và Ricoeur đều nhận thấy huyền thoại là một hình thức ngôn luận có thể mở ra những chân trời tri thức và cách hiểu biết lịch sử của chủ thể. Huyền thoại hay sự tích diễn cảm nỗ lực tìm hiểu về tình huống hiện sinh của con người. Để làm rõ nỗ lực hiện sinh đứng sau sự tích Adam, chúng ta cần so sánh sự tích này với các huyền thoại xa xưa khác về nguồn gốc của sự dữ. Ricoeur đã sưu tầm ba loại huyền thoại khác về nguồn gốc của sự dữ: huyền thoại “Enuma Elish” của xứ Sumeria-Babylon, chuyện thần thoại Hy Lạp, và sấm truyền Ophism theo Platon. Cả bốn huyền thoại này kể lại nguồn gốc của tạo thành là sự thống trị của sự dữ nguyên thủy, đau khổ là thực tại hảm họa của kiếp người, sự dữ là sự hiệu quả sai lầm của khủng hoảng hiện sinh, và tồn tại như là một sự lưu đày khốn khổ. Chúng ta hãy lượt qua bốn loại huyền thoại này.

Thần thoại “Enuma Elish”

Loại truyền thuyết “Enuma Elish” cổ xưa nhất tại xứ Sumeria-Babylon kể lại sự tạo dựng vũ trụ như là hậu quả của “cuộc chiến” giữa thần dữ và thần lành. Lúc trời đất còn hỗn mang, có thần Marduk tranh chấp với một con rắn tiền sử. Rắn bị tử thương, thần Marduk lấy hai mắt rắn làm mặt trời và mặt trăng, da sần sùi làm núi và đất, và lấy máu rắn làm thành người. Con người có sự sống là nhờ rắn tiền sử đổ máu. Vũ trụ (cosmos) là công trạng chiến thắng của vị đại thần, nên vị thần này phải được phụng thờ và trung thành tuyệt đối. Sự dữ được xác định như là sự hỗn loạn nguyên thủy mà tranh đấu với nó thì cũng là hành vi tạo dựng, sự cứu độ, giải thoát và trao ban tự do cho vũ trụ. Việc giết chết những vị thần lão luyện nhất được xem như là việc sinh ra trật tự thế giới hiện tại và là sự xuất hiện của loài người. Con người không phải là nguồn gốc của sự dữ, nhưng con người đã khám phá và tiếp tục sự dữ.

Vì sự dữ là quá khứ của tồn tại, cho nên huyền thoại này được gắn liền với phụng tự, như là sự tái diễn tả vở kịch tạo dựng trong hình thức của vị Vua hay của những lễ hội Tân Niên hay tái hiến Đền Thờ. Vì sự dữ và lịch sử hiện diện cùng lúc, nên con người phải liên tục tái khẳng định sự tồn tại mong manh của mình. Nếu sự dữ khởi xuất từ một quyền lực có sẵn từ nguyên thủy và sự thiện là chiến công của thần lành thì thần dữ sẽ luôn tìm cơ hội để phục kích, nhất là trong lúc thần lành “vắng mặt” (Satan xuất hiện khi Thiên Chúa vắng mặt khỏi vườn địa đàng). Sự duy trì của tế lễ ngày đêm tiến dâng trong đền thờ là để bảo trì sự quân bình và trật tự đã thiết lập và ngăn ngừa hỗn loạn trở lại (Thánh Vịnh 29:9-10). Kinh Thánh Do Thái thay thế việc tranh chấp với thần dữ bằng “Lời” Thiên Chúa phán ra, và việc thiết lập trật tự bằng hành vi phân cách trời và đất, ngày và đêm, nước và đất khô. Lịch sử không còn là việc tái diễn của vở kịch nhưng nó chính là vở kịch ấy. Vì thế bất cứ lúc nào, con người cũng có thể bị sa ngã qua cám dỗ, và tương quan giữa con người với Thiên Chúa và thiên nhiên sẽ bị rạn nứt.

Bi kịch Hy Lạp

Loại huyền thoại thứ hai đến từ văn minh Hy Lạp, kể lại nguồn gốc con người như nạn nhân của một “bi kịch.” Sự dữ và sự lành không là đối thủ với nhau như trong truyền thuyết Enuma Elish trên đây, nhưng cả hai cùng hiện diện trong quyền năng của các bậc thần minh. Con người là nạn nhân của sự ganh tị hoặc tranh chấp giữa các thần quyền, không khác gì những tên nô lệ bị đem ra hí trường, thí mạng sống vật lộn với sư tử để giúp vui cho hàng vua chúa. Trong định mệnh oái oăm đó, kiếp làm người không có sự tự do thật sự mà chỉ bị ném vào cõi trần ai đầy chông gai. Lúc còn thơ ấu ai cũng tưởng sẽ tìm được hạnh phúc lâu bền trên cõi đời này. Nhưng khi bắt đầu hiểu biết và nếm mùi đời thì không tránh khỏi những đau thương khổ ải đang chờ sẵn. Không ai có thể trốn chạy định mệnh. Chỉ sau khi trải qua nhiều cay đắng đoạn trường thì con người mới thấu hiểu được ý nghĩa của cuộc sống. Con mắt của Ađam và Evà chỉ mở ra sau khi đã ăn trái “biết lành biết dữ”. Cái giá phải trả cho sự trưởng thành và khôn ngoan trên đời này là kiếp sống đày đọa và gian nan.

Sự khác nhau cơ bản giữa viễn tượng “kịch trường” của Enuma Elish và viễn tượng “bi kịch” của Hy Lạp là sự đối lập giữa thần lành và thần dữ trong quan điểm thứ nhất thì không có trong quan điểm thứ hai. Trong bi kịch Hy Lạp, thần thánh vừa là nguồn của lời khuyến dụ tốt lành, lại vừa là sự lôi cuốn con người đến sự lầm lạc. Quan điểm “bi kịch” coi tội lỗi như là thành phần của một sự khốn khổ đầy phức tạp mà con người phải chịu đựng từ khi sinh ra đến khi chết đi. Kiếp sống con người như sự đối nghịch giữa tự do và định mệnh, hay ý muốn của con người hay ý chí của thần minh. Không ai tránh khỏi định mệnh nên cách duy nhất để kết thúc sự hiện hữu đầy bi thảm là phải đi qua nó. Chỉ khi chấp nhận những cay đắng và thảm họa trên đời thì mới có thể đạt sự khôn ngoan. “Cũng đành nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay vần ra sao” (Kiều).

Sự tích “Adam”

Cả hai loại huyền thoại Enuma Elish và Hy Lạp trên đây xem thân phận con người hoàn toàn do bàn tay thần thánh quyết định, còn sự tích Ađam thì cho rằng chính con người đem sự dữ vào thế gian khi con chọn làm theo ý riêng của mình thay vì tuân phục ý Thiên Chúa. Đây mới đích thực là sự tích về “con người” (Ađam). Qua biến cố “ăn trái cấm,” con người không chỉ khám phá bản thân mình trần truồng của mình, nhưng cả khả năng sinh tồn và tất cả những gian nan của kiếp người. “Con rắn”, hiện thân của Satan, hiểu được tham vọng muốn làm chủ đời mình, và đã dùng nó để cám dỗ con người. Thay vì phó thác vào Thiên Chúa, con người muốn nắm quyền “biết lành biết dữ,” và hậu quả là cuộc sống vô tư bị thay thế bằng mồ hôi và nước mắt, phải lao động mới có miếng ăn, và chịu đau đớn để duy trì giống nòi. Giá phải trả là con người đánh mất cơ hội trường sinh bất tử và từ đó, kiếp người trở nên một kiếp “đày đọa” ra khỏi nơi mà mình đã được tạo dựng nên.

Tuy nhiên, sự tích “Ađam” cũng tỏ lộ “ngoại tính” của tội lỗi. Cho dù sự dữ (con rắn) một cách nào đó đã len lỏi vào cõi sống vô tư của vườn địa đàng, nhưng con người chỉ trở thành “tội nhân” khi tiếp tay với quyền lực của sự dữ (bị cám dỗ). Quyền lực của sự dữ không là vô hạn nhưng chỉ xảy ra trong khuôn khổ “lịch sử”, khởi đầu từ Ađam và kết thúc với Đức Kitô. Theo Phaolô, nếu tội của Ađam thứ nhất đem lại chết chóc và đày đọa cho con người, thì cái chết của Ađam thứ hai – Đức Kitô – đem lại sự cứu rỗi và mở cửa thiên đàng cho nhân loại. Cũng thế, “miếng ăn” thứ nhất (trái cấm) đánh mất khả năng bất tử của con người thì “miếng ăn” thứ nhì (Mình & Máu Đức Kitô) mang lại sự sống đời đời. Thành công nhất của sự tích Ađam là đã tách biệt nguồn gốc sự dữ ra khỏi nguồn gốc sự thiện. Sự thiện bắt đầu từ Thiên Chúa, nhưng sự dữ khởi đầu từ con người bị cám dỗ. Tự bản chất được tạo nên con người không phải là sự dữ, nhưng trong tồn tại sự dữ được đồng hóa với “thủy tổ” của nhân loại.

Cuối cùng, sự hiện diện của con rắn trong sự tích Adam cho thấy dấu vết ảnh hưởng từ các huyền thoại bi kịch và thần bí cổ xưa, nhưng vẫn có sự thay đổi: con rắn không còn là một vị thần tranh chấp với Thiên Chúa; nó không thể khẳng định bản chất nguyên thủy của con người.  Tuy vậy, sự hiện diện của con rắn đã để lại một vấn nạn nhị nguyên trong nhân học: ngôi vị con người là tốt do tạo dựng và là xấu bởi sự chọn lựa, con người không tạo nên sự dữ mà là tiếp tục sự dữ. Sự tích Adam nói lên tinh thần sám hối của người Do Thái, và dọn đường cho khái niệm “nguyên tội” bằng việc khai thác điểm khác biệt giữa bản thể tính và lịch sử tính của tồn tại. Nghịch lý này chỉ có thể được hóa giải qua biểu tượng “công chính hóa” của Thiên Chúa.

Sấm truyền “Orphism”

Cả ba loại sự tích trên đây không nói đến “hồn” rõ ràng cho bằng sấm truyền “Orphism” mà Plato đã đúc kết thành sự tích hang động trong sách Republic. Theo Plato, vật chất và thân xác là nguồn gốc của tội lỗi và đau khổ. Con người như con chim đang bị nhốt trong lồng “thể xác,” đam mê với những lộng lẫy giả tạo chung quanh. Càng theo đuổi thỏa mãn dục vọng bao nhiêu thì lại càng thất vọng bấy nhiêu, vì bản chất con người không phải là thể xác mà là linh hồn. Muốn thoát khỏi đau khổ, con người phải giác ngộ, nhận định chân lý và trở về với cái gốc linh thể của mình. Minh triết có thể giúp con người tỉnh thức, quay lưng nhìn vào ánh sáng ở cửa hang, tức là nguồn của mọi sự chân, thiện, mỹ. Ảnh hưởng của truyền thuyết này được thấy rõ qua thái độ xung đột giữa thân xác và linh hồn trong triết thuyết Plotinus và tính nhị nguyên trong linh đạo Kitô giáo. Thể xác được xem như là chướng ngại vật và chỉ linh hồn mới có khả năng đưa con người về cuộc sống vĩnh hằng.

Đây là huyền thoại đầu tiên về linh hồn. Cho dù các huyền thoại cổ đại có nói về một sự nứt gãy nơi tình trạng của nhân loại, nhưng chúng chẳng bao giờ phân chia con người thành hai thực tại. Huyền thoại về “linh hồn bị đày ải” của Plato là nguồn của não trạng nhị nguyên trong nhân học. Sự dữ phát sinh từ linh hồn nhưng được bù đắp trong thân xác. Như thế, tồn tại trong thân xác mang ý nghĩa sự vong thân hay trừng phạt, như một tù nhân đang ở chốn lưu đày, nơi mà linh hồn phải trả nợ. Từ quan điểm “linh hồn bị đày ải” xuất phát một năng lực hữu lý cho đạo đức học. Sống với thân xác không phải là nhập thể vào thân xác nhưng là tái nhập thể, con người phải trở về với thân xác vì nó chưa thực sự hoán cải hoàn toàn. Ơn cứu độ chính là “tri thức” về việc biến bản ngã trở thành một linh hồn thay vì là thể xác. Thông qua thanh tẩy hay hoán cải thì linh hồn mới được tỉnh thức và thoát ra khỏi thân xác.

Khi so sánh các huyền thoại về nguồn gốc sự dữ và thân phận con người trên đây, chúng ta thấy rõ vai trò vượt trội của sự tích Ađam. Đau khổ trong kiếp người không phải do thần thánh, định mệnh, hoặc từ thân xác mà ra, nhưng là kết quả của sự chọn lựa sai lầm của con người. Qua “kinh nghiệm” sa ngã, con người khám phá ra mình là một chủ thể còn què quặt nhưng lại có khát vọng muốn trở thành như Thượng Đế. Nhưng vì là hậu quả của sự cám dỗ từ bên ngoài, sự tích này nói lên một kẽ hở trong trật tự của vũ trụ tốt lành mà Thiên Chúa đã thiết lập, và là một sự khủng hoảng trong kiếp hiện sinh con người phải vượt qua.

     SUY TƯ THẦN HỌC TỪ NHÃN QUAN BIỂU TƯỢNG

Hai mươi lăm năm sau sáng tác “Biểu Tượng về Sự Dữ” (The Symbolism of Evil, 1960), Ricoeur đã trở lại với mối quan tâm đầu tiên về sự dữ như một khái niệm hiện sinh qua bài viết “Evil, A Challenge to Philosophy and Theology” (1985). Chúng ta hãy rút tỉa vài áp dụng cho suy tư thần học từ các biểu tượng, huyền thoại, truyền thống khôn ngoan và thần lý học.

Trước tiên, lối tiếp cận từ biển tượng luận cho thấy sự dữ không chỉ đơn thuần là một sự thiếu vắng hữu thể (như thần lý học thường khẳng định) nhưng mang tính “tích cực” vì nó là một quyền lực bóng tối vốn gây nên khủng hoảng, câu thúc cảm xúc và suy tư của chủ thể. Hệ quả của nó là sự biến đổi trong mối quan hệ với Đấng Thánh và môi trường, sự thù nghịch giữa thiên nhiên và con người sau khi phạm tội. Lao động trở thành một sự nhọc nhằn lao lực. Trần truồng, một dấu chỉ vô tư nguyên thủy, bị thay thế bằng sự xấu hổ và sợ hãi. Niềm vui của việc sinh nở mang nặng ý nghĩa của truân chuyên. Sự chết, một tiến trình tự nhiên, bị mặt lên ý nghĩa nguyền rủa: con người phải chết vì đã phạm tội.

Thứ hai, các huyền thoại về sự dữ cho thấy thảm trạng của con người tự thú sự yếu đuối của mình. Con rắn, một “kẻ thù” truyền kiếp của loài người trong các sự tích cổ xua, giờ đây xuất hiện và đứng giữa con người và bạn tình của mình, tạo nên một tình trạng căng thẳng hiện sinh bên trong chủ thể. Trải nghiệm về sự dữ đưa con người tới ý thức về trách nhiệm và tự do nội tại. Các giáo phụ thường cho rằng “con rắn, người nữ và người nam” là ẩn dụ cho ba giai đoạn của sự dữ, “cám dỗ, thân xác và lý trí”. Khi chịu thua trước sự cám dỗ, lương tâm con người trở nên bối rối, muốn lánh mặt Thiên Chúa, và đồng hóa mình với thiên nhiên và sự vật. Nhưng cho dù con người “quên” Thiên Chúa, Thiên Chúa không “bỏ mặc” con người, Ngài muốn phục hồi “ngôi vị” của con người, một thụ tạo hoàn hào nhất trong vườn địa đàng. Thiên Chúa đã “đi tìm” con người và gọi đích danh “con người đang ở đâu?”. Qua điều này, sự tích Ađam cho thấy phạm tội không chỉ là làm điều ô uế hay cấm kỵ tôn giáo, mà là làm trái “thánh ý Chúa”. Do đó, chỉ trước mặt Ngôi vị Tối Cao là Thiên Chúa, thì ngôi vị “làm người” mới được phục hồi.

Thứ ba, lối tiếp cận sự dữ từ biểu tượng giúp ta nhận ra rằng cấu trúc của tồn tại thì “giống như” cấu trúc của biểu tượng. Nết biểu tượng là sự siêu thăng tính hữu hạn của một hữu thể, thì qua các biểu tượng tôn giáo con người cũng chiếu phóng chính mình lên thế giới để vượt qua khủng hoảng hiện sinh. Tồn tại trở thành một “bản ngã” qua cách nó biểu tượng hóa chính nó, tức là tạo một chỗ cư ngụ “bên ngoài” chủ thể, nơi mà những dự phóng văn hóa và lịch sử làm cho đời sống tinh thần của con người trở nên hiện thực. Như thế, khi chủ thể chấp nhận trách nhiệm cho tội đã phạm và thực thi điều cần thiết để vượt qua ngõ cụt do tội gây ra, tức là chủ thể chấp nhận cuộc sống truân chuyên của thực tại thay vì “thế giới lý tưởng” của vườn địa đàng. Sự tích Adam hướng về một tương lai tích cực hơn, nhắc nhở con người chịu trách nhiệm cho chọn lựa sai lầm của mình, và nỗ lực hàn gắn sự đổ vỡ với nền tảng thánh thiên trong cuộc sống thực tế, chứ đừng mãi mơ ước tìm về “cõi địa đàng” đã bi đánh mất.

     BIỂU TƯỢNG LUẬN VỀ SỰ DỮ: DIỄN ĐÀN CHO SUY TƯ THẦN HỌC

Giờ đây, chúng ta sẳn sàng rút tỉa một vài ý tưởng cho suy tư thần học dựa trên các biểu tượng về sự dữ.  Đầu tiên, từ nhãn quan siêu hình, thần lý học nhấn mạnh nhiều về tính “hư-vô” hay “thiếu bản thể” của sự dữ, nhưng lại bỏ qua “ngoại tính” của khía cạnh “ô uế” có khả năng gây nên ô nhiễm hay bào mòn sự thiện.  Chiều kích “sự dữ có sẵn trong thế giới” cho ta một hậu cảnh thiết thực khi cử hành các nghi thức trừ tà và thanh tẩy. Chúa Giêsu cầu nguyện cho Giáo hội “…không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian” (Ga 17,16). “Ngoại tính” của sự dữ gây ý thức về sự vô trách nhiệm của con người. Vật chất tự nó không gây nên “ô uế”. Các bí tích thể hiện sự hiện diện của Thiên Chúa vô hình qua hình thức vật chất hữu hình (nước, rượu, bánh, v.v.). Nhưng “ô uế” đến từ tham vọng của con người lạm dụng thiên nhiên, dùng hóa chất nguy hại để ngụy tạo sản phẩm với mục tiêu gia tăng lợi nhuận.  Chỉ gần đây chúng ta mới ý thức về sự tổn hại gây nên từ các tiến bộ công nghệ. Suy tư thần học cần mở rộng phạm vi “ô uế” của sự dữ giữa con người với thế giới là căn nhà chung của mọi tạo vật.

Biểu tượng “phạm tội” mời gọi thần học nới rộng cách con người hiểu về Thiên Chúa. Tội lỗi gây ra sự vong thân giữa chủ thể với chính nó, với thế giới và với Thiên Chúa, nhưng kinh nghiệm phạm tội cũng là kinh nghiệm khám phá mầu nhiệm “vắng bóng-có mặt” của Thiên Chúa. Biện chứng pháp này giúp tội nhân ý thức về sự gần kề lẫn sự xa cách với Thiên Chúa. Do đó, phạm tội không thể bị giảm thiểu thành một sự xúc phạm luân lý khách quan (luật lệ), mà là cơ hội cũng giúp ta ý thức về chiều sâu của tự do. Karl Rahner và Joseph Fuchs nhận xét rằng kinh nghiệm về tội lỗi tỏ lộ có sự khác biệt giữa tự do “siêu việt” và sự tự do “theo phạm trù”. Sự “lựa chọn nền tảng” (fundamental option) của chủ thể như là một ngôi vị trước mắt Thiên Chúa cho thấy trạng thái nghịch lý của con người. “Hành vi” phạm tội tự nó chưa đánh mất ý hướng của toàn bộ hữu thể về Thiên Chúa. Đây là chiều kích siêu nghiệm về tội.

Tâm trạng “có lỗi” xảy ra khi chủ thể chấp nhận trách nhiệm cho tội đã phạm và thực thi điều cần thiết để vượt qua ngõ cụt do tội gây ra. Trong khi sự cắn rứt của lương tâm có thể bào mòn tính tự lập cá nhân, nhưng tâm trạng “có lỗi” tự bản thân là tích cực bởi vì nó nhắc chúng ta có trách nhiệm “dọn sạch” sự hỗn độn và vượt qua sự đổ vỡ do tội của mình gây ra. Năng lực này có thể được thấy trong thần học giải phóng khi con người sống dưới sự đàn áp nhận ra rằng họ phải trở thành những chủ thể của lịch sử đời mình và thôi thúc họ đấu tranh cho giải phóng. Từ quan điểm “có lỗi” thì giải phóng là một sự hoán cải với bộ mặt trái của đời sống xã hội như lạm dụng quyền bính, đam mê thống trị vốn đang diễn tiến qua lịch sử con người. Ý thức “có lỗi” giúp ta hiểu về mối tương quan mong manh của tồn tại với nền tảng thánh thiêng của nó.

Một khi các biểu tượng về sự dữ được đan dệt thành sự tích hay huyền thoại với mục đích “kể lại” nguồn gốc của sự dữ, thì chúng phải “cạnh tranh” với nhau để đáp ứng cho nhu cầu tri thức của con người. Nhưng vì bản chất của sự dữ là “mầu nhiệm” cho nên không một huyền thoại đơn độc nào sẽ thỏa mãn mọi khao khát của lý trí, nhất là khi đau khổ vượt quá khả năng chịu đựng của con người. Thần học trình thuật (narrative theology) như tự truyện, kể truyện, kịch nghệ có thể giúp cộng đồng hồi tưởng lại những ký ức về ân sủng và tai họa, và sự mâu thuẫn giữa thiện và ác rồi cũng sẽ từ từ giải quyết chính nó, khi đức tin và lý trí tạo nên một hợp đề mới. Hơn nữa, khi con người bị ném vào thế giới đầy dẫy truân chuyên mà không phải là do mình mà ra, lý trí sẽ bị lôi cuốn vào cuộc truy vấn liên tục. Bao nhiêu trình thuật về nguồn gốc của sự dữ thì cũng không quan trọng cho bằng lý do “tại sao tôi phải chịu đau khổ?”. Truyền thống Khôn Ngoan nhắc nhở con người về giới hạn của lý tính và sự bất khả tri về lý do tối hậu của sự dữ. Con người được Thiên Chúa ban ơn phúc thì con người cũng phải chấp nhận đau khổ, càng muốn biết thì sẽ càng đau khổ hơn thôi. Số phận của Gióp đã được sắp đặt trong cuộc đấu trí giữa Satan và Thiên Chúa rồi. Ông Gióp bị quở trách vì ông “muốn biết” về lý do tối hậu của sự dữ, nhưng ba người bạn của ông ta bị quở trách nặng hơn là vì họ cho rằng họ “biết câu trả lời” cho vấn đề nguồn gốc của đau khổ. Các người bạn đó đã không nhận ra mầu nhiệm và cái giá phải trả cho sự hiểu biết.

Truyền thống Khôn Ngoan cho ta một bài học khi có sự mâu thuẫn giữa các biểu tượng như Thiên Chúa và Sự dữ. Có lúc cần phải đóng khung mối quan hệ với một biểu tượng cao hơn để hòa giải sự mâu thuẩn nơi các biểu tượng thấp hơn. Nếu sự hòa giải ấy thành công, thì mối quan hệ với biểu tượng cao hơn sẽ được phục hồi và được tăng thêm sức mạnh. Nạn nhân của đau khổ phải được phép than khóc, trách móc Thiên Chúa để qua đó mà sự phẫn nộ sẽ được giảm đến mức tối thiểu. Nạn nhân được khuyến khích biểu lộ sự tức giận hoặc khước từ những giao ước cá nhân hầu để phục hồi sự bình an và tự chủ. Từ đó, nạn nhân sẽ nhận ra rằng sự dữ vẫn tiếp tục tồn tại bất kể những gì ta làm hay không làm cho Thiên Chúa. Mục đích cuối cùng là giúp cho nạn nhân đạt đến được tầm mức tin tưởng vào Chúa dù sự dữ vẫn có mặt (Reodor Dostoevski). Suy tư thần học theo lối này cần phải được hỗ trợ trong một môi trường an toàn, là nơi mà tiến trình chữa lành có thể được theo dõi.

Cuối cùng, thần lý học của Augustine – một hình thức phản ngộ giáo – đề ra khái niệm “nguyên tội” như là một giải pháp trong bối cảnh độc thần giáo. Nhưng thần lý học không giải thích được sự sa ngã nguyên thủy của các thiên thần (Satan). Đây là chiều kích bi kịch của tồn tại vốn đã bị đánh mất nơi tín điều nguyên tội. Suy tư thần học về tội cần nhận ra tình huống hiện sinh của con người trong tương quan với Thiên Chúa. Khi thần lý học Irenê cho rằng sự dữ như là công cụ và là hiệu lực để phát triển luân lý, thì thần lý học này cũng đã lướt qua sự khác biệt giữa tính hữu hạn của tồn tại và tội lỗi. Thiếu nhạy cảm về yếu tố bi thảm của tồn tại sẽ không thể phục hồi trọn vẹn ý nghĩa vốn được phóng chiếu nơi các biểu tượng về sự dữ. Giải thích học-hiện tượng luận của Ricoeur cho thấy nếu sự dữ không thể được loại bỏ hoàn toàn nhưng chỉ có thể được hiểu biết tốt hơn, thì suy tư về sự dữ nên bắt đầu với chính biểu tượng, là nơi mà “ngôn ngữ mới thành hình” và chưa bị ô nhiễm bởi các giáo điều duy lý.

     KẾT

Không một liệu trình đơn thuần nào có thể giải quyết hoàn toàn được vấn đề sự dữ. Các liệu trình duy lý-tư biện (thần lý học, luân lý học, đạo đức học) sẽ bỏ qua cấu trúc biểu tượng-huyền thoại của kinh nghiệm. Các liệu trình kỹ thuật-thực hành (tâm lý, xã hội, y học, linh đạo) có khuynh hướng phân mảnh sự thống nhất của kinh nghiệm. Nhưng sự tôn trọng cấu trúc biểu tượng của kinh nghiệm giúp mở rộng nhãn quan của ta về sự dữ. Lối tiếp cận này cũng có thể được áp dụng vào nhiều lãnh vực khác như chú giải Kinh Thánh, suy tư thần học, tư vấn mục vụ. Vì lẽ, bản chất của tồn tại là biểu tượng hóa trải nghiệm của chủ thể.. Qua biểu tượng mà thiên nhiên trở thành văn hóa; cái cá biệt trở thành phổ quát, và điểu thế tục trở nên thánh thiêng. Con người dùng biểu tượng để nói về nền tảng thánh thiêng và cách thế thiếp lập mối tương quan với Đấng Thánh. Như thế, biểu tượng chân thực luôn hướng con người về khát vọng cuối cùng, đó là sự “gần kề” thánh thiêng.

------------------------------

     Tài liệu tham khảo

Paul Ricoeur, The Symbolism of Evil, (Beacon Press, 1967).

Joseph Tân Nguyễn, Theodicy After Paul Ricoeur, (Catholic Theological Union, 1987).

____________, Thông Diễn Học, NXB Đồng Nai, 2022.

John Hick, Evil and the God of love. Springer Paperback, 1974.

Francis Schussler Fiorenza & John Calvin, Systematic Theology, (Fortress Press, 1991).

zalo
zalo