Ngày tháng: 21/12/2024
Đang truy cập: 59

TÌM HIỂU VÀ NGHIÊN CỨU TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ - Phần 1/15

TÌM HIỂU VÀ NGHIÊN CỨU TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ - Phần 1/15

Lm. Tôma Thiện Trần Minh Cẩm, OP.

----------

PHẦN I: TRIẾT HỌC BÀ LA MÔN

CHƯƠNG II: CÁC DARSANA

     I. HỆ THỐNG NYÂYA

     1. Định Nghĩa

     Danh từ Nyâya có nghĩa là “phương pháp”, “quy luật”, do đó, cũng có nghĩa là “công lý”. Nhưng trong ngành triết lý, nó có nghĩa là “lý luận”, “luận lý”, và đặc biệt nó chỉ định một hình thức luận lý có thể gọi tạm là “ngũ đoạn luận”. Nhưng ý nghĩa chuyên môn này chỉ có về sau này, cho nên Nyâya, với tính cách là một Darsana vẫn hiểu như là hệ thống Vaisesika mà các Suâtra chỉ có trước các Suâtra của Nyâya không bao lâu, và không những thế, các tác phẩm của hệ thống này về sau có thể nói hoàn toàn đồng hoá với các phạm trù của hệ thống Vaisesika.

     2. Nguồn Gốc

     Khoa luận lý là khoa đã được Ấn độ quan tâm đến từ lâu. Chính danh từ Ânviksiki, tên cũ nhất của triết lý Ấn độ cũng đặc biệt có ý nghĩa là luận lý. truyền thống cho rằng ông tổ của Nyâya là Gotama… hay Gautama. nhưng người ta không biết gì lắm về nhân vật này, bởi vì trước hết Gautama là tên của nhiều rïsïi, chẳng hạn như Phật Thích Ca… cũng có tên là như  vậy. Điều chắc chắn là Nyâya có trước khi các Nyâya-Suâtra thành hình. Người ta tìm được trong Carakasamhitâ của phái lang y, có trước các Nyâya-Suâtra, những học thuyết tương tự như phái Nyâya, thế mà Carakasamhitâ xuất hiện vào khoảng đầu kỷ nguyên này, có khi còn trước nữa. Nhiều tài liệu khác nữa cho ta thấy nguồn gốc của Nyâya lên mãi trước kỷ nguyên Thiên Chúa Giáo.

     3. Lập Trường của Phái Nyâya

     Nyâya là một hệ thống thực tế dậy lý luận đúng về những hiện tượng mà phái đó công nhận là thực. Vì lý do đó, là một phương tiện khoa học mà y khoa của Caraka đã sử dụng. Nhưng khoa luận lý này cũng là một phương tiện giải thoát, bởi vì nó là một phương tiện tri thức đúng, mà theo nhiều hệ thống Ấn, tri thức đúng là một phương tiện giải thoát. Thật vậy, Suâtra đầu tiên của Nyâya dạy rằng tri thức về 16 yếu tố của biẹân chứng sẽ giúp ta đạt được sự thiện tối hậu. Suâtra thứ hai dạy rằng người ta sẽ đạt được sự giải thoát cuối cùng (apavarga) khi người ta lần lượt loại trừ được tri thức sai lầm (mithyâjnâna), những lỗi phạm (dosa), hoạt động (pravrti), sinh (janma), và khổ đau (duhkha). Mỗi yếu tố trên đây theo thứ tự, cái này sinh ra cái kia bởi đó, tựu trung, nguồn gốc đau khổ của hiện hữu là do vô minh, hay là tri thức sai lầm. Đây là điểm có phần nào giống với thập nhị nhân duyên của Phật Giáo.

     Hệ thống Nyâya chủ trương hữu thần, bởi vì theo hệ thống này cần phải có một Isvara là nguyện nhân hữu hiệu cho việc thưởng phạt các hành động. Tuy nhiên, vấn đề Thượng đế trong hệ thống này, khởi đầu không phải là vấn đề căn bản. Bởi vì trước hết nó chỉ là một hệ thống luận lý mà một hệ thống hữu thần hay vô thần đều có thể sử dụng được. Tính cách hữu thần sau đó mới trở thành quan trọng trong hệ thống, nhất là nhờ Vâtsyâyana, tác giả của tập bình luận Nyâyabhâsyâ, theo đó Isvara là hữu thể tối cao, cha sinh và là đấng điều khiển vạn vật.

     4. Tác Phẩm

     Tập Nyâyasuâtra, tác phẩm căn bản của hệ thống gán cho tác giả tên là Aksapâda, được coi như xuất bản vào khoảng năm 260 sau Tây lịch. Trong tập này có nhiều chỗ có nói ám chỉ tới Darsana khác cũng đang được thành hình vào thới đó, và đặc biệt là có giọng chống đối Phật Giáo. Tập Nyâyasuâtra chia thành năm chương: hai chương đầu nói về các yếu tố luận lý vả nêu ra học thuyết chống lại những phản thuyết mà tác giả giả thuyết có, chương ba nghiên cứu về các đối tượng của tri thức và trình bày tri thức luận, chương bốn bàn về nguồn gốc của vũ trụ, về nghiệp báo và về giải thoát, chương năm là một thứ phụ chương nói về luận cứ vô ích và phi lý.

     Tập bình luận của Nyâyasuâtra là Nyâyabhâsya của Sakailavâmin Vâtsyâyana xuất bản vào khoảng thế kỷ IV. Sau đó thì có tập: Nyâyavârttika của Uddyotakara Bhâradvâja, và khoảng đầu thế kỷ VII… chính tập bình luận này sẽ được Vâcaspatimista thế kỷ IX bình luận:

     5. Học Thuyết

     Như trên đã nói, Nyâyasuâtra trình bày 16 yếu tố hay là thành phần tri thức luận, mà về sau này từ Colebrooke người ta gọi là “phạm trù”, các nhà bình luận Nyâyasuâtra gọi là Padârtha. Các Padârtha này gồm có: phương tiện tri thức hay là phán đoán (pramâna: mực thước, tiêu chuẩn), cái có thể đo lường được (pramena) tức là cái đối tượng của tri thức hay phán đoán, lý do (prayojana), nghi vấn (sâmsaya) thí dụ (drstânta), chánh thuyết chủ trướng (siddhânta), các thành phần  (avayâva), của ngũ đoản luận, biện luận (tarka), kết luận (nirnïaya), dị luận (vâda), tranh luận (jalpa), tranh luận vun vặt, cãi bướng (vitandâ), nguỵ biện (hetvâbhâsa)-sophisme-, lừa lọc (chala), phiếm luận (jâti) và những điều phi lý (nirgrahasthâna).

     Trong những padârtha này chỉ có những pramânïa, những “phương tiện tri thức” đáng cho chúng ta quan tâm nhiều hơn. Có tất cả bốn Pramâna:

a) Pratvaksa, nhận thức trực tiếp, đó là tri thức (jnâna) nó sinh ra bởi sự tiếp xúc (samnikarsa) giữa các cơ quan cảm giác với các đối tượng của chúng.

b) Anumâna, suy luận gồm có ba cách :

Puârvavat tiên thiên hay tiên nghiệm, đi từ nguyên nhân tới hậu quả, thấy nguyên nhân mà đoán trước kết quả.

Sesavat: hậu thiên hay hậu nghiệm, đi từ hậu quả đến nguyên nhân.

Samânyato drsta: loại suy, dựa vào cái này suy ra cái kia, thí dụ nếm một giọt nước biển thì biết tất cả nước biển đều mặn như thế.

c) Upamâna: so sánh hay tỷ giảo, đó là đem đối chiếu một đối tượng chưa biết với loại đối tượng đã biết, để nhận định những điểm mà đối tượng kia cùng có như những đối tượng trong loại này. thí dụ như một thành phố lần đầu tiên trông thấy con bò rừng biết rằng đó là bò rừng, nếu trước đó người ta bảo rằng bò rừng giống bò nuôi. Phương tiện tri thức thứ ba này không được phái Vaisesika và phái sâmkhya công nhận.

d) Sabda, nhân chứng hay quyền bính, nghĩa là tri thức dựa vào nhân chứng hay uy tín của người đã thông biết truyền lại. Phái Vaisesika và cũng như luận lý của Phật giáo phủ nhận tri thức này.

Sau khi trình bày những phương tiện tri thức hay phán đoán, Pramâna, Nyâyasuâtra trình bày các đối tượng của Prtamâna. Những đồi tượng đó gồm tất cả 12: Âtman, Sariâra (thân), Indriya, các cơ năng cảm giác và hành động. Artha, các đối tượng của các cơ năng nói trên, Buddhi, thức, Manas, tâm, Pravrïtti, hoạt động, Dosïa, các lỗi lầm và phiền não, giao động, Pretyabhâva, hiện hữu kiếp sau: Pala, hiệu quả của hành động, Duhïkha, khổ đau, và sau hết là Apavarga giải thoát.

     Âtman. Trong tất cả các đội tượng của tri thức kể trên, chúng ta cần đặc biệt chú trọng tới Âtman. Trong tâm lý học Ấn độ, Âtman khác với tâm (Manas) là cơ quan cảm tính trong đó tụ về tất cả những ấn tượng từ ngũ quan truyền đi, và được biến thành cảm giác, trước khi trở thành tri giác dưới hoạt động của thức (Buddhi), là cơ quan làm cho những ấn tượng cảm giàc nói trên trở thành đối tượng của tri thức. Nhưng chủ thể của tri thức là Âtman, bởi vì chỉ có nó, nơi con người, là có đặc tính, là có thể ước muốn, giận ghét, sướng, khổ, và tri thức. Tri giác xảy ra khi giao tiếp giữa Manas, cơ quan mang những ấn tượng cảm giác được, với Âtman, nói cách khác, Âtman biết nhờ Manas. Theo Nyâyabhâhâsya, linh hồn hằng hữu, nhưng đôi khi có thể lâm cảnh luân hồi, bởi phối hợp với thân xác do các hành động xác định, linh hồn sẽ được giải thoát khi nghiệp báo hết.

     Thân xác được gọi là Âsraya, cái nâng đỡ, nơi nương tựa của các chuyển động và khả năng cảm giác cũng như đối tượng của cảm quan.

     NGŨ ĐOẠN LUẬN. Như đã nói trong đoạn trình bày về ý nghĩa của danh từ Nyâya, danh từ này còn có một ý nghĩa đặc biệt là chỉ định một hình thức luận lý. Đó là một thứ lý luận diễn dịch không thuần tuý. Theo tam đoạn luận cổ điển của Tây phương, chúng ta có hình thức sau đây: Tiền đề, cũng còn gọi là Đại đề (Majeur), rồi đến một tiểu đề làm trung gian (Mineur), sau đó là câu kết luận. Thí dụ:

Tất cả mọi người đều phải chết (đại đề)

Giáp là người (tiểu đề)

Vậy Giáp phải chết (kết luận)

Nếu so sánh với hình thức tam đoạn luận trên, “ngũ đoạn luận” của phái Nyâya có vẻ rườm rà hơn. Thực vậy, ngoài ba thành phần chính của một tam đoạn luận như trên, phái Nyâya đòi hỏi một dẫn chứng, và hình thức ngũ đoạn luận đó như sau:

Tiền đề                               : Trên núi có lửa

Lý do                                  : Vì thấy có khói

Thí dụ dẫn chứng              : Tất cả nơi đâu có khói là có lửa, thí dụ như trong bếp.

Áp dụng                             : Cũng vậy, nếu trên núi có khói

Kết luận                             : Thì tất nhiên trên đó phải có lửa.

Nếu muồn diễn đạt hình thức luận lý này giống hình thức luận lý của Aristote thì chúng ta có thể dùng loại một, kiểu ba, gọi là DarII:

Tất cả người công chính đều quảng đại

Một vài người bác học (là người) công chính

Vậy vài người bác học (đó) quảng đại.

Cũng tương tự như thế, chúng ta đổi ngũ đoạn luận của phái Nyâya ra tam đoạn luận kiểu DarII:

Tất cả cái gì có khói đều có lửa

Trên núi đó có khói

Vậy trên núi đó có lửa.

     6. Sự Phát Triển của Nyâya

     Cũng như tất cả mọi hệ thống tư tưởng Ấn độ, hệ thống Nyâya nó cũng đã thay đổi với thời gian và do bàn tay của những người bình giải Nyâyasuâtra. Đặc biệt là, như đã nói trên kia, Udayana đã đi tới chỗ lập thành một nền thần học về thượng đế mà nội dung là một chuỗi nối tiếp những luận lý đúng theo luật của trường phái. Thí dụ như trong đó có nói rằng: Veda được mạc khải, mà mạc khải là một tri thức đúng… (pramâ) từ một vị mạc khải chính xác, không có vị khạc khải nào bằng Thượng đế, vậy hoặc chính ngài đã mạc khải Veda, hoặc là nếu ngài không hiện hữu thì mạc khải Veda vô giá trị.

Nhưng sự phát triển của hệ thống Nyâya về sau này thiên về sự phối hiệp hệ thống Vaisesika mà chúng ta bàn tới sau đây.

     II. HỆ THỐNG VAISESIKA

     1. Nguồn Gốc

     Nhiều sư gia cho rằng phái Vaisesika có từ lâu, trước cả Phật giáo, và đặc biệt là phái Jaina đã chịu ảnh hưởng của phái này. Có người còn cho rằng ngay trong Rïgveda cũng có những chỗ ám chỉ Vaisesika thí dụ trong Milindapanha và Lalitavistara, đặc biệt là trong tập thứ hai này, người ta cho rằng Đức Phật rất thông thạo Vaisesika cũng như Sâmïkhya và Yoga. Theo một tài liệu khác của Phật giáo thì Vaisesika xuất hiện vào khoảng thế kỷ II sau Tây lịch. Theo một tài liệu khác của Jaina, Avassaya, thì Vaisesika được thành hình do một nhóm Jaina ly khai mà Rohagutta Chauluâga cầm đầu, vào khoảng (năm) 544 năm sau khi Jina tịch diệt, nghĩa là vào khoảng năm 18 sau Tây lịch. Như vậy, cả Phật giáo lẫn Jaina đều đồng nhất cho rằng Vaisesika xuất hiện vào khoảng thế kỷ I hoặc II sau Tây lịch. Trong tập Carakasamnita là tập người ta cho rằng xuất hiện vào thời Kaniska, có nói tới trong phạm trù của phái Vaisesika, do đó, chúng ta càng có thể tin được rằng phái này xuất hiện vào những thế kỷ đầu kỷ nguyên mới.

     Nhưng, nếu xét đến những điểm giống nhau trong học thuyết của Vaisesika và Phật cũng như Jaina, đặc biệt là khái niệm về nguyên tử, thì người ta co thể nói được rằng họ đã vay mượn một số tư tưởng đã có từ trước, nghĩa là trước kỷ nguyên Thiên Chúa Giáo. Và đó là điều mà thực ra tất cả các Darsana khác cũng đã làm, nhưng với tính cách là một hệ thống có sắc thái riêng biệt, Vaisesika không thể nào có trước kỷ nguyên mới.

     2. Lập Trường của Vaisesika

     Vaisesika là hệ thống chủ trương xác định bằng cách phân biệt hay loại biệt, chính chữ Vaisesika cũng có nghĩa là “cái loại trừ tất cả các cái khác”! Trong khi phái Sâmïkhya kiểm kê những yếu tố của thiên nhiên, phái Vaisesika biệt loại chúng và trình bày những đặc tính của chúng. nhưng không phải vì đó mà hai phái có thể được coi như là cùng suy tư trên cùng một lãnh vực, bởi vì phái Vaisesika không có cùng một bảng kê khai những yếu tố vũ trụ như phái Sâmïkhya. Đàng khác, tình thần  của phái này thuộc loại tổng hợp hơn là phân tích như phái Vaisesika, và như chúng ta đã nói trong phần về Nyâya, phái Vaisesika và phái này có nhiều tương quan, bởi vì cả hai đều có tính các “khoa học” một bên, phái Vaisesika thì chguyên về vật lý, bên kia, phái Nyâya, thì chuyên về khoa luận lý. Do đó mà hai phái về sau đã đi tới chỗ phối hiệp, tuy nhiên khởi đầu thì vẫn là hai hệ thống tách biệt.

     Đứng  trên lập trường Nguyên tử luận, phái Vaisesika là một học thuyết thực tế, nhưng không phải là một phái duy vật, trái lại đây là một học thuyết nhị nguyên, giống như phái Sâmkhya, tuy rằng học thuyết nhị nguyên này khác với học thuyết nhị nguyên của phái khác Sâmkhya. Thật vậy, phái Vaisesika công nhận những nguyên tử vật chất mà sự phối hợp của chúng cấu tạo nên vạn sự, đàng khác họ công nhận những Âtman phối hiệp với các tổ hợp nguyên tử vật chất nói trên để nhập thể vào thế giới hiện tượng, và trầm luân trong cõi luân hồi. Nhưng các âtman này sẽ được giải thoát bỏi sự hiểu biết về bản chất thực sự của vạn vật và bản chất của chính chúng, là khác biệt vời các tổ hợp nguyên tử vật chất.

     Ở bên trên các Âtman, phái Vaisesika chủ trương có một Isvara, một đơn tử siêu việt và tách biệt vạn sự. Nhưng người ta cho rằng quan niệm này mới được sát nhập vào hệ thống chứ không có ngay từ khỏi đầu bởi vì thực ra Vaisesika không trực tiếp nói tới Isvara, Jacobi cho rằng nguyên thuỷ hệ thống này được xây dựng trên nền tảng duy vật vo thần. Các nguyên tử được coi là hằng hữu và biến đổi bởi một sức mạnh vô hình và tự động không cần đến một sự can thiệp nào khác của thượng đế hay thần linh. Nhưng theo Glasenapp thì ngay khỏi đầu, và về sau này khuynh hướng hữu thần của họ càng rõ rệt dưới hình thức như  dưới cùng hình thức với Nyâya.

     3. Tác Phẩm

     Các Suâtra của phái Vaisesika có lẽ xuất hiện sớm hơn tất cả các Suâtra của các Darsana khac, tuy rằng cũng có người cho rằng tác phẩm của phái Nyâya có trước. Người ta cho rằng Vaisesikasuâtra có vào khoảng đầu kỷ nguyên Thiên Chúa Giáo, Masson Oursel nói vào khoảng 50-150, Suali nói vào khoảng 250-300, Jacobi lại cho là còn muộn hơn nữa. Theo truyền thống, đó là tác phẩm của Kanabhuj hay Kanâda, hoặc nữa Kanabhaksa nghĩa là “người ăn hạt”, có lẽ là tên riêng người ta đặt cho tác giả ám chỉ tới hoạc thuyết nguyên tử của ông, vả lại những chữ Kana có nghĩa là nguyên tử. Người ta  cũng còn gọi tác giả là Uluka đó mà Vaisesika cũng còn được gọi là Auluâkya. Theo Max Muâller có lẽ tên đó đồng nghĩa với tên Chauluâga trong tiếng Prakrit. Là tên những người Jaina gọi ông tổ phái Vaisesika.

     Vaisesikasuâtra là tác phẩm gồm 370 Suâtra chia thành 10 chương, tương đối sáng sủa gọn ghẽ hơn Nyâyasuâtra. Tác phẩm này khởi sự bằng một–định nghĩa về Dharma: yato bhyudayanihsùreyasa siddhih sa Dharma Dharma là cái mà nhờ đó sự thăng hóa tuyệt đỉnh có thể thực hiện được. Phần còn lại trong chương đầu nói về phạm trù. Chương hai nói vế các bản thể, chương ba về các đối tượng, chương bốn về các nguyên tử, chương năm vế các tác động, chương sáu về các nghĩa vụ của bốn cảnh sống, chương bảy vế các đặc tính và tương quan của chúng với các bản thể, chương tám và chương chín nói về các phương tiện tri thức và phán đoán sau cùng chương mười nói về nguyên nhân luận.

     Sau Vaisesikasuâtra thì có lẽ là tập Padârthadharmasamgraha của Prasastapâda, tập đó cũng được gọi là Dravyâdisatpadârthabhasya: bình luận về sáu phạm trù và bản thể,vv … Đây là một loại sách tuy có danh nghĩa là bình luận Vaisesika nhưng thực ra Prasstapâda rất tự tiện đem những tư tưởng riêng của mình vào, bởi vậy nó là tác phẩm độc đáo hơn là một tập bình luận. Trong tập này, người ta thấy có ảnh hưởng của tư tưởng phật tử Dignâga, một nhân vật sống ở thế kỷ IV, tuy rằng Prasastapâda vẫn chiến đấu chống phật giáo. Vậy tác phẩm này được cói là xuất hiện vào thế kỷ thứ năm, các tác phẩm khác các phái Vaisesika chỉ ra đời từ năm 1600 trở đi với tập Upaskâra của  Sankaramisra. Ngoài ra, còn phải nói tới tác phẩm thuộc về loại hoà đồng tư tưởng Nyâya và Vaisesika, trong số đó trước hết phải kể đến tập Saptapadarthi:”

     Thuyết “bảy phạm trù”của Siyâditya khoảng năm 950. Nhưng loại sách hòa đồng tư tưởng của hai phái xuất hiện nhiều nhất từ thế kỷXVII trở đi, trong số các tác phẩm đó phải kể đến tập Tarkasamgraha của Annambhatta là tác phẩm sẽ đẻ ra 35 tập bình luận khác.

     4. Học Thuyết

     A. Các phạm trù

     Phái Vaisáesika chủ trương có sáu phạm trù, Padârtha. Tất cả những gì hiện hữu đều có thể qui về: hoặc là Dravya bản thể hoặc Gura (đặc tính) hoặc Karman (hoạt động), hoặc Sâmânya (tổng loại) hoặc Visesa (phân biệt) hoặc sau cùng là Samavâya (nội thuộc). Đây không phải chỉ là vấn đề danh từ mà là những thực tại khách quan biệt lập. Không phải chỉ có các bản thể mới là những thực tại, mà là những đặc tính, những hành động của chúng cũng là những thực tại, những khách thể, Artha. Nói tóm lại, đây không phải  chỉ là một sự phân biệt xếp loại theo lý trí, mà là những thực tại khách quan bên ngoài.

     Về sau này, người ta thêm vào bảng thống kê đó phạm trù thứ bảy là vô hữu (Abhava).

     Điều đáng chú ý là trong Vaisùesikasuâtra, các định nghĩa thường là theo lối tiêu cực, nghĩa là nói về sự vật nào đó là nó không là cái này, không là cái kia, hơn là nó là cái gì.

     Trở lại các phạm trù, đi vào chi tiết chúng ta lần lượt kể đến:

     Các bản thể : (dravya), các bản thể gồm có 9: Đất (prthiviõ), Nước (âpas), Lửa (tejas), Gió (vâyu), Ê te (âkasa), thời gian (kâla), Không gian (Disù), linh hồn (âtman) và tâm (manas). Bốn bản thể đầu tiên có thể phân tích thành nguyên tử, Đất có hình sắc (ruâpa), Vị (gandha), hướng (rasa), và có thể sờ mó được (sparsùa). Nước cũng có hình sắc, hương vị, có thể sờ mó được và cùng có thể chảy, và gợn sóng. Lửa chỉ có hình sắc và không thể sờ mó. Gió chỉ có thể cảm–giác được, thôi …

     Các đặc tính (Guna) : Guna là cái làm cho bản thể là thế này hay thế khác, và linh động thế nọ thế kia khác với bản thể khác. Trong Vaisesikasuâtra, người ta kê khai tất cả 17 đặc tính. hình sắc (ruâpa), vị (gandha), hương ( rasa), sự sờ mó (sparsa), số (sâmkhya), lượng hay kích thước (pavimâna), cá tính (prthaktva), tiếp đó là những cặp mâu thuẫn (dvandva), hợp tan (samyoga vibhagau), xa gần (paratvâparatve) tri giác (buddhayah), sướng khổ (sukhaduhkhe), yêu và ghét (icchâdversau), và sau hết là những cố gắng (prayatna). Về sau này Prasestrapâda còn thêm vào trọng lượng (gurutva), sự chảy (dravatva), sự dính (sneha), âm thanh (sabda), trật tự hay đạo đức (dharma), vô trật tự hay cái xấu (adharna) và hành hay hạnh (samskâra), nghĩa là các cơ năng tạo nên tâm thức.

     Các hoạt động: có năm hoạt động là :lên cao (utksepana), xuống thấp (avaksepana), co lại (akuncana), giãn ra (prasârana) và di chuyển (gamana).

– Tổng loại (Sâmânya) là cái làm cho các sự vật nào đó thuộc cùng một loại với nhau.

– Phân biệt hay loại biệt (visesa) : khác với Sâmânya, đây là cái làm cho sự vật này khác biệt với sự vật khác.

– Nội thuộc (Samavâya): là tương quan thường tồn giữa hai thành phần mà nếu tách rời ra người ta không thể quan niện nổi. Thí dụ nguyên nhân và hậu quả, sự chuyển động và chuyển động, cá nhân và chủng loại, bản thể và đặc tính.

– Vô hữu (abhava): phạm trù thứ 7 do Sivâditya đưa vào gồm:

w Tiền vô hữu: nghĩa là hiện hữu thuộc về tương lai. Thí dụ : nói về một hiểu quả trước khi hiểu quả này thể hiện.

w Hậu vô hữu : nghĩa là hiện hữu quá khứ. Thí dụ nói về một nguyên nhân sau khi nó thành hiệu quả rồi. Thí dụ: hạt thóc đối với cây mạ, hạt thóc là nguyên nhân(không còn nữa) của cây mạ.

w Vô hữu hổ tương: đó là tương quan phân biệt hai thực tại làm cho hòn đá không là tấm bánh.

     B. Học Thuyết về Âtman

     Trong các phạm trù kể trên, âtman là phạm trù quan trọng hơn cả. Có nhiều âtman và âtman hiện hữu trong các cá thể. Aâtman là linh hồn, đồng thời có tính cách vật lý và tâm linh. Bản tính và sự trường tồn của nó được so sánh với gió. Chính vì vậy mà có người đã nghĩ rằng phái Vaisùesika đồng quan điểm với Susùruta, đồng hoá gió với tổng ngã (sarvâtman). Nhưng thực ra phái Vaisùesika chỉ có ý nói rằng bản tính và sự trường tồn của linh hồn cũng có thể minh chứng  được cũng như chứng minh về Gió vậy. Linh hồn, âtman vĩ đại vô biên, nhưng không phải chỉ có một mà có nhiều.

     C. Tri Thức Luận

     Cùng với Âtmam còn có manas, là một bản thể giúp nó trong vấn đề tri thức. Nếu âtman vĩ đại, vô biên, thì trái lại manas chỉ là một nguyên tử. Tri thức được thể hiện khi nào có sự giao tiếp giữa âtman và các đối tượng của cảm quan; nhưng qua trung gian của manas. Bởi vậy, tuy âtman vô biên và có thể giao tiếp với vạn sự và nó có thể tri thức bất cứ khi nào có sự giao tiếp với đối tượng của cảm quan, nhưng đôi khi tri thức đó lại không được thể hiện, là tại manas. Manas là một bản thể độc lập đối với âtman là động cơ của nó. Mỗi âtman có một manas, và manas này cũng có bản tính trường tồn như âtman, chỉ khác là nó nhỏ bé chứ không vĩ đại như linh hồn, bởi vì nếu nó vĩ đại vô biên thì chắc chắn nó sẽ luôn luôn giao tiếp với các cảm quan, và như vậy việc tri thức đồng thời xảy ra một trật làm cho tất cả trở nên hỗn đốn.

     Trái với các phái Sâmkhya và Yoga, phái Vaisùesika không quan niệm thức như một cơ quan riêng biệt mà cho đó là một đặc tính của âtman, đặc tính làm cho âtman “thức tỉnh” vì sau Prasùastapâda còn đi tới chỗ lập ra một học thuyết về thức. Về những phương tiện tri thức (pramâna) thì phái Vaisùesika chỉ công nhận có hai, là :Pratyaksa, nhận thức trực tiếp, và Anumâna, suy lý.

     D. Nguyên Nhân Luận

     Đặc điểm của nguyên nhân luận này so sánh với nguyên nhân luận khác là không công nhận rằng hiểu quả là một thực tại ở trong nguyên nhân, bao lâu mà hiểu quả đó chưa được thể hiện. Họ lý luận rằng hiển hữu tiềm thể của hiệu quả (kârya) ở trong nguyên nhân trước khi nó tỏ hiện,  không thể có được, bởi chính sự tỏ hiện kia cũng là một hiểu quả. Vậy nó cũng phải có trước khi nó tỏ hiện, và đó là điều phi lý. Vậy chấp nhận rằng hiệu quả có sẵn trong nguyên nhân là một thái độ duy tâm, bởi vì chỉ có người duy tâm mới nghĩ như vậy, nghĩa là họ coi nguyên nhân cũng chỉ như là một ý niệm, và do đó, hiểu quả mới chỉ hiện hữu trong ý niệm, cũng có thể coi như hiện hữu như nguyên nhân của nó.

     Có ba loại nguyên nhân:

– Samavâyikârana, nguyên nhân nội thuộc, ví dụ như sợi chỉ là nguyên nhân nội thuộc của tấm vải, và tấm vải là nguyên nhân nội thuộc của hình dáng của nó.

– Samavâyikârana, nguyên nhân không nội thuộc, thí dụ như việc dệt các sợi chỉ không là nguyên nhân nội thuộc của tấm vải, và hình dáng của sợi chỉ là nguyên nhân không nội thuộc của hình dáng tấm vải bởi vì nó không là nguyên nhân trực tiếp của hình dáng tấm vải.

– Nimittakârana, nguyên nhân hiện hữu, thí dụ như nghề dệt vải.

– Nguyên tử luận: Học thuyết thời danh của phái Vaisùesika là học thuyết về nguyên tử. Đây là một học thuyết thực tế quan niệm thế giới vũ trụ vạn vật được xây dựng bằng những yếu tố vật chất. Những yếu tố này là những đơn tử tập hợp lại với nhau theo những luật nhất định tạo thành thế giới vạn vật.

     Paramânu hay anu, nguyên tử, thực ra không phải là cực tiểu, nó lớn bằng 1/6  hạt bụi mà ta có thể thấy dưới ánh nắng mặt trới. Hai nguyên tử kết hợp laị thì thành Đvyanuka, đó là tổ hợp đầu tiên; ba tổ hợp “nhị nguyên” khi hợp lại thì thành Tryanuka, bốn Tryanuka tạo nên thành tổ hợp “tứ đẳng”. Và sự tổ hợp các nguyên tử cứ theo định luật này mà tiếp tục để tạo ra vạn sự hữu hình mà chúng ta trông thấy được tổ hợp này được thực hiện nhờ một sức mạnh tự phát mà người ta gọi là Adrsta, vô hình.

     Nguyên tử hằng hữu, vì nó hiện hữu (sat) mà không có nguyên nhân (akâranavant), vì nó đơn thuần nên không có tan biến sau mỗi chu kỳ vũ trụ, trái lại, sau mỗi chu kỳ này, chỉ có các tổ hợp mới tan biến. Có tất cả bốn loại nguyên tử : nguyên tử đất, nguyên tử nước, nguyên tử lửa, và nguyên tử gió. Các nguyên tử đất hợp lại tạo thành đất, các nguyên tử nước họp lại tạo thành nước, vv.. e te không ở trong nguyên tử nhưng là môi trường liên tục và hiện hữu khắp nơi làm phương tiện chuyển động của âm thanh.

     Sự hơp tan của các nguyên tử như đã nói, là do một sức mạnh vô hình tự khởi. Nhưng người ta cũng cho rằng đó là do ý Thượng Đế và do ảnh hưởng của Karman.

     Nguyên tử luận của phái Vaisùesika xem như thể rất độc sáng, nhưng ta đừng phán đoán nó trên quan điểm khoa học, bởi vì  thực đây cũng chỉ là một cách giải  thích hiện tượng vũ trụ với mục đích đạt được  giải thoát mà thôi. Cũng chính vì thế mà người Ấn, cả trong phái Vaisùesika đã không đào sâu về học thuyết nguyên tử của họ để tìm ra những định luật tổng quát, hơn nữa như tinh thần khao học đòi hỏi, trái lại họ nêu  ra một số  định luật tổng quát mà họ cho là đúng mà không cần có một chứng nghiện nào cả. Nhưng dù sao, phái Vaisùesika cũng đã tạo dựng được một nền tảng khoa học tương đối khá đầy đủ, so sánh với các khoa vật lý, thiên văn và y khoa Ấn Độ đương thời.

----------

---Còn tiếp---
 

zalo
zalo