Ngày tháng: 21/11/2024
Đang truy cập: 136

TÌM HIỂU VÀ NGHIÊN CỨU TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ - Phần 11/15 - Lm. Tôma Thiện Trần Minh Cẩm, OP.

TÌM HIỂU VÀ NGHIÊN CỨU TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ - Phần 11/15

Lm. Tôma Thiện Trần Minh Cẩm, OP.

c õ ª õ d

PHẦN III:NHỮNG QUAN NIỆM TRIẾT LÝ VÀ ĐẠO ĐỨC CĂN BẢN CỦA ẤN ĐỘ

CHƯƠNG II: VŨ TRỤ QUAN VÀ NHÂN SINH QUAN CỦA ẤN ĐỘ GIÁO

I. VŨ TRỤ VÀ CON NGƯỜI TRONG TƯ TƯỞNG ẤN ĐỘ

     “Thế giới này sinh ra trong hoan lạc, nó được hoan lạc nâng đỡ nó, đi về hoan lạc và đi vào trong hoan lạc”.

     Sở dĩ tôi không muốn tách rời “con người” và “vũ trụ” là vì trong tư tưởng Ấn Độ, vũ trụ vạn vật và con người chỉ là một. Thật vậy trước hết, chúng ta nên nhớ lại rằng đối với Ấn Độ, không phải chỉ có con người mới có hồn sống, nhưng tất cả vũ trụ vạn vật đều bao hàm trong ý thức mà chúng ta gọi là ý thức vũ trụ (Conscience cosmique). Nói khác đi, vũ trụ và con người đều thuộc về cùng một đơn nguyên tính căn bản.

     Về điểm này, không ai có thể giúp chúng ta hiểu rõ bằng thi hào R.Tagore, ông viết:

      “Đối với Ấn Độ, đơn nguyên tính căn bản của tạo vật không chỉ là một suy lý triết học: mục đích của đời sống chúng ta chính là thực hiện sự hòa hợp bao la này trong cảm tình và trong hành động. Nhờ sự suy niệm và tinh thần hiến dâng, và bằng  cách điều chỉnh cuộc đời của mình, Ấn Độ đã đào luyện tình trạng tri thức của mình một cách đến nỗi tất cả đã thu phục cho nó một ý nghĩa tinh thần. Đối với Ấn Độ, đất, nước và ánh sáng, quả và hoa, không chỉ là những hiện tượng vật lý mà người ta phải dùng đến để rồi ném vất ra ngoài một bên. Chúng cần thiết cho chúng ta để chúng ta đạt tới ý tưởng của sự hoàn thiện của chúng ta, cũng như trong một bản hòa tấu, mỗi nốt nhạc góp phần vào trong toàn diện. Ấn Độ đã cảm thấy bằng trực giác rằng vũ trụ đối với chúng ta có một ý nghĩa trọng yếu. Chúng ta cần phải ý thức rõ rệt về điều đó và phải thiết lập với vũ trụ những tương quan giúp chúng ta thực hiện trong thiện cảm và với một cảm tình vui tươi thanh bình, và phải thực hiện không vì bị tính tò mò thúc đẩy, cũng không để tìm tư lợi vật chất…”(Sadhana , tr. 14 –15).

     Tư tuởng Ấn Độ hướng về tuyệt đối, về vô biên: hành động chính yếu của Ấn Độ là thực hiện hòa đồng đại ngã vô biên. Chính vì thế mà đôi khi chúng ta có cảm tưởng như Ấn Độ ít chú trọng tới những sinh hoạt về phương diện chính trị, kinh tế, khoa học; trái lại, như R.Tagore đã nhận định: “Lý tưởng mà Ấn Độ cố gắng theo đuổi đã dẫn đưa những người ưu tú nhất tới việc lẩn thân đi tìm đời sống chiêm niệm (vie contemplative). Và kho tàng mà Ấn Độ chinh phục được cho nhân loại bằng cách đi sâu vào mầu nhiệm của sự thật đã là một giá đắt đỏ cho Ấn độ, vì đã khiến Ấn Độ không thành công trong những phạm vi khác. Tuy nhiên đó cũng là một thực hiện cao cả, một biểu dương tối cao của ước vọng nhân loại không chấp nhận biên giới và chỉ đeo duổi một cứu cánh là thực hiện vô biên“.

      “Chúng tôi đã có những người đức độ, những người tốt và những người thông thái uyên bác;chúng tôi cũng đã có những nhà chính trị vĩ đại, các vua và các hoàng đế. Nhưng, trong số những người đó, Ấn Độ đã chọn ai để sùng mộ, và Ấn Độ đã coi ai là những người tiêu biểu cao cả nhất của nhân loại ?”

     Chính là các Rishis. Những Rishis là ai ? họ là những người đã đạt được Đại Ngã (Mahâtma) trong ý thức, họ là những người đầy Trí Huệ, khi đã tìm thấy Đại Ngã hiệp nhất với ngã mình, đã sống hoàn toàn trong trong sự hòa đồng với nội ngã. Thực hiện đại ngã trong tâm, họ đã được giải thoát mọi ước muốn ích kỷ; nhận biết đại ngã trong mọi sinh hoạt của thế giới, họ đạt tới thanh bình trang trọng. Các vị Rishis là những người ở đâu cũng đạt được Thượng Đế tối cao, ở đâu cũng tìm được sự an bình chắc chắn;họ hiệp nhất cộng thông với tất cả những gì hiện hữu và đã đi sâu vào trong cuộc sống vũ trụ” (cf. Mundaka Up. III, 2, 5). (Sadhana tr.20-21).

     Khao khát tuyệt đối, say sưa mải miết thực hiện vô biên, các bậc thánh hiền của Ấn Độ đã hiểu hơn ai hết rằng “giải thoát đòi hỏi siêu thoát” và “muốn được tất cả phải hiến dâng, hy sinh tất cả”.

“Để đi tới chỗ được nếm tất cả,

Đừng ưa thích (nếm) cái gì.

Để đi tới chỗ biết mọi sự,

Đừng biết chi cả.

Để đi tới chỗ chiếm đoạt tất cả,

Đừng có của cải chi hết.

Để trở nên tất cả,

Đừng là cái gì hết”.

(Thánh Gioan Thánh Giá, Montée du Carmel).

     Nhưng tại sao Ấn Độ lại khao khát tuyệt đối và say sưa mải miết thực hiện vô biên đến thế ?

     Điều đó không có gì là khó hiểu, bởi vì Ấn Độ quan niệm rằng:  vũ trụ và con người chỉ là một sự lưu xuất của Thượng Đế, hoặc là một dạng thức, hay là một phần bản thể của Thượng Đế phát xuất, biến hóa từ chỗ là tâm linh tới vật chất hữu hình. Hay đối với nhiều hiền triết khác, hiện hữu con người và vũ trụ chỉ là một ảo hóa, một giấc mơ, nó có tính cách vô thực (irréel). Mà sỡ dĩ con người bị trầm luân trong khổ đau chính là vì nó đã chấp mê cho cái hư ảo là thực và tìm hết mọi cách tô điểm và làm giàu cho cái vô thực kia; hay là nghĩ rằng cái “tôi” chính là chân lý cuối cùng, và chấp nhận cái hạn hữu tuyệt vọng của cá nhân tách rời khỏi đơn nguyên tính căn bản của vạn sự, đồng nhất với thực tại tối hậu và duy nhất.

      “Tội lỗi, theo như  R.Tagore đã viết, không phải là một hành vi như những hành vi khác, đó chính là một thái độ của người đã chấp nhận rằng mục đích của chúng ta bị hạn hữu, rằng cái ngã của ta là chân lý tối hậu, rằng tất cả chúng ta không phải là một xét về bản tính, nhưng mỗi người chỉ hiện hữu cho mình, hiện hữu cá biệt và tách biệt” (Sadhana, tr.95).

     Mỗi nốt nhạc trong một bản hòa tấu nếu tách rời ra sẽ không có ý nghĩa, không có giá trị nghệ thuật nào cả, trái lại nó cũng chỉ giống như một tiếng kêu, tiếng động vô duyên và làm cho người ta khó chịu tức tối. Trái lại, nếu người ta biết đặt nó vào trong cái toàn thể của bản hòa tấu, lúc ấy nó sẽ có một giá trị bất khả thay thế hủy bỏ. Con người tìm chiếm hữu thống trị vũ trụ vạn vật sẽ cảm thấy mình bị giới hạn thiếu thốn, và vũ trụ vạn vật lúc ấy sẽ chỉ là những sức mạnh chống đối, những sức nặng kéo ghì nó lại và giam hãm tù đày nó trong hạn hữu. Trái lại, hòa mình vào trong cái toàn thể của vũ trụ tìm chỗ đứng của mình không phải là một chỗ riêng rẽ cô đơn, nhưng là trong hòa đồng vô biên của vũ trụ, con người sẽ cảm thấy được tự do – siêu thoát, họ cũng giống như người dầm mình và bơi lội tự do trong vô biên của biển cả chứ không múc nước biển gánh lên vai đem về làm của riêng.

     Hiểu được như thế, chúng ta mới biết tại sao Ấn Độ ít hăng hái tranh đấu giành quyền ưu tiên cho con người trong vũ trụ vạn vật, nhưng luôn luôn cố gắng duy trì tình thân tộc liên đới với tất cả những gì là nhiên giới. (nature)

     Có lẽ chính vì khuynh hướng căn bản này mà Ấn Độ đã có một nhân sinh quan khác biệt, độc đáo: một nhân sinh quan trong đó con người không là đối tượng nhưng luôn đóng vai trò chủ thể đi tìm siêu thoát chính mình để đạt tới sự hòa đồng giữa cá tính và phổ tính. Nói cách khác đi, triết lý Ấn Độ về con người không phải là một triết lý về bản thể hay bản tính con người, nhưng luôn luôn là triết lý về Đạo (Đharma). Đạo đây không phải là một mớ tín lý hay nguyên tắc luân lý hoặc nữa tổng bộ những nghi lễ, hay là tổ chức và pháp chế, v.v… Cái Đạo đây, theo quan niệm của Ấn Độ, là một chân lý nội tại đối với chúng ta, một chân lý toàn diện của hữu thể, của hiện hữu chúng ta, hoàn toàn bao gồm trong hiện hữu phổ quát, trải rộng từ lòng biển sâu thẳm tuyệt vời tới những miền trời sao heo hút xa xăm, và tới cả thế giới vô hình và vô biên nữa. Chẳng hạn như cái Đạo của một hạt giống chính là cái nghị lực nhiệm mầu tàng ẩn trong nó khiến nó tự giải thoát khỏi cái vòng kiềm hãm chật hẹp của cái vỏ cứng rắn và siêu thoát được tình trạng rữa nát trong lòng đất để trở thành mầm non, thành cây và sau đó sinh hoa kết quả… Cái Đạo của con người cũng thế, nó không chỉ giới hạn trong việc giải thoát khỏi tử cung, khỏi cái giới hạn của gia đình, học đường, quê hương, làng xóm, quốc gia; nhưng nó còn là cái Đạo giải thoát con người khỏi chính cái “ngã”, cái “tôi” để đạt được vô biên của đại ngã.

     Triết lý đối với Ấn độ, phải là triết lý giải thoát. Nó không phải là một thứ thuần lý (spéculation) như kiểu triết học Tây phương, nhưng nó là một Sadhana, một sự  “thực hiện”. Nó không chỉ là những tra hỏi về con nguời hay vũ trụ, cũng không chỉ là những câu hỏi về hữu thể, nhưng chí là một Sadhana về hữu thể.

     Điều mà các thánh hiền Ấn Độ luôn cố gắng tìm tòi không phải là để mở mang kiến thức con người, để hiểu biết con người một cách khoa học như  Tây phương: họ không mở những lớp dạy triết học, không mở những phòng thí nghiệm, không khai khẩn ruộng nương rừng rú hay mỏ vàng, mỏ bạc,.v.v… Họ không đặt ra những khoa như  nhân hình học, tâm lý học…

     Nhưng họ chỉ đi tìm ngã và tìm ngay ở chính thâm tâm của mình, bởi vì tất cả các ngài đều biết như thi hào và đồng thời là nhà huyền bí Ấn Độ thế kỷ XV, Kabir, rằng: “Anh sẽ không bao giờ thấy rừng, nếu anh không biết cây là gì; cũng thế, anh sẽ không bao giờ biết gặp ngài nếu anh đi tìm ngài trong những ý tưởng trừu tượng”. (Poème de Kabir, số XC, cf.R.Tagore, La Fugitive, Gallimard, 1948).

“Học hành mà làm chi, suy nghĩ mà làm chi?

Nghe có ích gì ? Hát thánh kinh có ích gì ?

Đọc mà làm chi , nghe mà làm chi ?

Nếu anh chưa kinh nghiệm về tuyệt đối ?

Hỡi ngườ ngu xuẩn, nếu anh không gọi đến tên Chúa ?

Thì suy nhĩ làm gì cho mất công ?

Trong tăm tối thì cần có đèn,

Để nhìn thấy sự vật duy nhất, vô hình,

Sự vật vô hình này, tôi đã tìm thấy,

Bởi vì ngọn đèn giấu ẩn trong chính thân tôi.

Kabir nói: Từ đây tôi biết Người,

Và biết Người, tôi tìm thấy bình an.

Nhưng thiên hạ không tin rằng tôi được hạnh phúc,

Và nếu họ không tin như thế, biết làm sao được ?”

Kabir, au cabaret de l’amour, Gallimard 1959, số CVII-tr.183.

     Có lẽ ở Ấn Độ, một hình thức vô thần chống đối thù oán Thượng Đế không thể có được. Điều chắc chắn là từ xưa vẫn có những người chủ trương duy vật, hoặc những người không đề cập đến vấn đề Thượng Đế, chẳng hạn như Phật giáo nguyên thủy. Nhưng điều lạ là chính Phật giáo nguyên thủy cũng mang đầy sắc thái tôn giáo, bởi vì Đức Phật cũng như đồ đệ của Ngài đều chỉ có một mục đích là thực hiện giải thoát, nghĩa là thực hiện cái gì là Tuyệt đối, là Chân lý, là sâu xa huyền nhiệm nhất của cuộc sống. Cho nên kết luận  là tất cả tư tưởng của Ấn Độ đều đi về hướng huyền bí, đều vươn lên Mầu nhiệm cuối cùng của hiện hữu, nó không dừng lại nơi con người hay nơi những gì thuộc thế giới hữu hình, nhưng nó muốn đạt tới chỗ mà “cái nhìn không thấu tới, lời nói v1 tư tưởng không diễn tả nổi…” (Kena Up.I). Quan niệm con người riêng biệt, tách khỏi cái toàn thể vũ trụ là điều Ấn Độ không thể chấp nhận; điều càng không thể chấp nhận hơn nữa là quan niệm con người và vũ trụ tách rời khỏi cái toàn thể, cái “Có Đấy”, mà ta gọi là Âtman hayBrahman ! Cho nên nhân sinh quan của Ấn Độ bao gồm trong vũ trụ quan, mà vũ trụ quan bao gồm trong quan niệm về Ngã, về Thượng Đế hay là Tuyệt Đối.

c õ ª õ d

---Còn tiếp---

 

zalo
zalo